NGUỒN GỐC TÊN GỌI CỦA MỘT SỐ TỈNH THÀNH VIỆT NAM

Bắc Giang

Bắc Giang thuộc bộ Võ Ninh thời vua Hùng dựng nước Văn Lang, đời Lý – Trần gọi là łộ Bắc Giang, đời Lê là phủ Bắc Hà, năm 1822 đổi là phủ Thiên Phúc, đến đời Tự Đức là phủ Đa Phúc. Đến nay chưa thấy tài liệu nào chứng tỏ, nhưng tên gọi Bắc Giang có nghĩa là phía bắc sông .
Trong ảnh là TT Phủ Lạng Thương tức thành phố Bắc Giang nay trên một bưu tн ¡ ếp có dấu bưu điện ngày 7/5/1908 .

Bắc Kạn

Bắc Kạn là một tỉnh thuộc vùng Đông Bắc Nước Ta. Bản sao bài văn Ъ ¡ ค “ Tam hải hồ sơn chí ” bằng tiếng Háห khắc trên đá dựng ở Bó Lù, bờ hồ Ba Bể, do tác giả Phan Đình Hoè áห รáт tỉnh Bắc Kạn viết, ông Vi Văn Thượng khắc và dựng Ъ ¡ ค năm 1925 : Chữ “ Kạn ” trong từ Bắc Kạn có bộ “ tài gẩy ” bên chữ “ Can ”, âm Háห Việt đọc là “ cản ”, chữ này có nghĩa là “ ngăn giữ, bảo vệ, chống cự ” ( phía bắc ) .
Trong ảnh là một trang sách của cuốn “ Chải tinh kỷ hoa ” bằng chữ Nôm của dân tộc bản địa Tày, dân tộc bản địa chiếm hơn 50 % dân số của tỉnh Bắc Kạn .

Bắc Ninh

1822 từ một phần xứ Kinh Bắc. Thời kỳ Hồng Bàng, nước Văn Lang chia làm có 15 bộ, bộ Vũ Ninh là vùng chủ quyền lãnh thổ thuộc phần nhiều tỉnh Bắc Ninh lúc bấy giờ. Tên gọi Bắc Ninh hoàn toàn có thể từ Kinh Bắc và Vũ Ninh mà thành .
Trong ảnh là cổng vào thành Bắc Ninh, thành cổ tiên phong của Nước Ta được kiến thiết xây dựng theo hình lục giác, lúc đầu được đắp bằng đất, cho tới năm Minh мạหg thứ 6 ( 1825 ), thành được xây lại bằng đá ong và ở đầu cuối xây lại bằng gạch vào thời Thiệu Trị ( 1841 ) .

Cao Bằng

Cao Bằng xưa thuộc bộ Vũ Định thời Hùng Vương, đến đời Lý về sau là đất Thái Nguyên. Năm 1467 gọi là phủ Bắc Bình, về sau đổi thành phủ Cao Bình. Năm 1676, nhà Lê thu phục từ tay nhà Mạc đặt lại thành trấn Cao Bình. Đến đời Tây Sơn, tên Cao Bình dần trại ra thành Cao Bằng cho đến giờ đây .
Trong ảnh là thác Bản Giốc thời Pháp thuộc với nhóm lính tập và viên chỉ huy người Pháp ( cưỡi ngựa ) chụp bên thác .

Điện Biên

Điện Biên là vùng đất cổ. Điện Biên Phủ vốn được gọi là Mường Thanh, từ chữ Mường Then theo tiếng dân tộc bản địa Thái, nghĩa là Xứ trời. Đây được xem là vùng đất thiêng ở miền biên viễn, theo ý niệm xưa, là nơi thông trời đất. Tên gọi Phủ Điện Biên, hay Điện Biên Phủ được vua Thiệu Trị đặt vào năm 1841, chữ Điện hiểu theo nghĩa này nghĩa là một vùng núi to nhưng đất thiêng, là điện thờ, Biên là biên viễn .
Trong ảnh là những người dân tộc bản địa Thái thu nhặt dù của quân Pháp tại mặt trận Điện Biên Phủ năm 1953 – 1954 .

Hà Giang

Hà Giang, theo cách lý giải về nghĩa chữ là con sông nhỏ chảy vào dòng lớn. Cụ thể ở đây là Sông Miện chảy vào Sông Lô
Trong ảnh là thị xã Hà Giang khoảng chừng năm 1910, phía xa là núi Cấm, dưới chân núi là những phố phường đông đúc dân cư sầm uất .

Hải Dương

Thành Phố Hải Dương có tên chính thức từ năm 1469, ý nghĩa “ Hải là miền duyên hải ” vùng đất giáp biển, “ Dương là áหh sáng ” áหh mặt trời. Thành Phố Hải Dương nằm ở phía đông kinh thành Thăng Long. Hướng Đông cũng là hướng mặt trời mọc. Vì vậy Thành Phố Hải Dương có nghĩa là “ ánh mặt trời biển Đông ” hay “ ánh sáng từ miền duyên hải ( phía đông ) chiếu về ”. Trong “ Dư địa chí ”, Nguyễn Trãi đã nhìn nhận Thành Phố Hải Dương là trấn thứ nhất trong bốn kinh trấn và là phên giậu phía đông của kinh thành Thăng Long .
Trong ảnh là thành Hải Dương tức Thành Đông năm 1885, một trong 4 thành trong Thăng Long tứ trấn .
Cảng, thành phố Hoa phượng đỏ, xây dựng vào năm 1888. Cái tên Hải Phòng Đất Cảng hoàn toàn có thể là gọi rút ngắn trong cụm từ “ Hải tần phòng thủ ” của nữ tướng Lê Chân đầu thế kỉ 1, hoặc từ tên gọi rút ngắn từ tên gọi của một cơ quan đời Tự Đức trên đất Thành Phố Hải Dương : Thành Phố Hải Dương thương chính quan phòng, cũng hoàn toàn có thể bắt nguồn từ ti sở nha Hải phòng sứ hay đồn Hải Phòng Đất Cảng do Bùi Viện lập từ năm 1871 đời Tự Đức .
Trong ảnh là toàn cảnh thị xã Kiến An xưa nhìn từ núi Đấu Đong. Doanh trại lính khố đỏ nằm dưới chân núi, phía xa là núi Thiên Văn, tên gọi này bắt nguồn từ đài thiên văn do người Phá xây năm 1902 trên đỉnh núi. Kiến An nằm trong thung lũng của hai dãy núi Thiên Văn ( tức Đẩu Sơn ) và núi Cột Cờ ( tức Phù Liễn ) .
Cảng, thành phố Hoa phượng đỏ, xây dựng vào năm 1888. Cái tên Hải Phòng Đất Cảng hoàn toàn có thể là gọi rút ngắn trong cụm từ “ Hải tần phòng thủ ” của nữ tướng Lê Chân đầu thế kỉ 1, hoặc từ tên gọi rút ngắn từ tên gọi của một cơ quan đời Tự Đức trên đất Thành Phố Hải Dương : Thành Phố Hải Dương thương chính quan phòng, cũng hoàn toàn có thể bắt nguồn từ ti sở nha Hải phòng sứ hay đồn Hải Phòng Đất Cảng do Bùi Viện lập từ năm 1871 đời Tự Đức .
Trong ảnh là toàn cảnh thị xã Kiến An xưa nhìn từ núi Đấu Đong. Doanh trại lính khố đỏ nằm dưới chân núi, phía xa là núi Thiên Văn, tên gọi này bắt nguồn từ đài thiên văn do người Phá xây năm 1902 trên đỉnh núi. Kiến An nằm trong thung lũng của hai dãy núi Thiên Văn ( tức Đẩu Sơn ) và núi Cột Cờ ( tức Phù Liễn ) .

Hà Nam

Hà Nam được xây dựng năm 1890, Tỉnh Nam Định được tách ra thành tỉnh Tỉnh Thái Bình và một phần phía bắc tách ra để cùng một phần phía nam TP. Hà Nội lập thành tỉnh Hà Nam. Hà lấy từ chữ TP.HN, Nam lấy từ chữ Tỉnh Nam Định .
Trong ảnh là sông Đáy chảy qua huyện Kim Bảng Hà Nam khoản năm 1950 .

Hà Nội

Sau khi diệt được triều đại Tây Sơn vua Gia Long đổi phủ Phụng Thiên ( Đất kinh thành cũ Thăng Long ) thành phủ Hoài Đức thuộc Tổng Trấn Bắc Thành. Năm Minh мạหg thứ 12 ( 1831 ) vua lại bỏ Bắc Thành và 11 Trấn và thay bằng 29 Tỉnh. Tỉnh TP.HN sinh ra và gồm có thành Thăng Long, phủ Hoài Đức ( của Tây Sơn ) và ba phủ Ứng Hòa, Thường Tín, Lý Nhân của Trấn Sơn Nam. Hà ( sông ) Nội ( bên trong ), TP. Hà Nội có nghĩa là thành phía trong sông, vì tỉnh Thành Phố Hà Nội được phủ bọc bởi sông Hồng và sông Đáy ( tài liệu tìm hiểu thêm : 1.000 năm Thăng Long-Hà Nội, Tô Hoài )
Trong ảnh là Cửa Bắc, tức Chính Bắc Môn, một trong năm cổng của thành TP. Hà Nội thời Nguyễn. Khi Pháp phá thành TP. Hà Nội họ giữ lại cửa Bắc vì nơi đây còn hai vết đại bác do pháo thuyền Pháp bắn từ sông Hồng năm 1882 khi Pháp hạ thành TP. Hà Nội lần thứ hai. Ngày nay trên cổng thành là nơi thờ hai vị tổng đốc Thành Phố Hà Nội là Nguyễn Tri Phương và Hoàng Diệu .

Hòa Bình

Hòa Bình là tỉnh được xây dựng năm 1886 theo nghị định của Kinh lược Bắc Kỳ với tên gọi là tỉnh Mường. Tỉnh lỵ đặt tại thị xã Chợ Bờ nên cũng còn gọi là tỉnh Chợ Bờ, cuối năm 1886 chuyển về xã Phương Lâm, năm 1888 đổi tên thành tỉnh Phương Lâm. Năm 1896 tỉnh lỵ được chuyển về đóng tại xã Hòa Bình, phía bờ trái sông Đà, đối d ¡ ệห với Phương Lâm và từ đó gọi là tỉnh Hòa Bình, sau nhiều lần tách nhập, đến nay vẫn giữ tên gọi này .
Trong ảnh là hình ảnh tư liệu việc nổ mìn thi công kênh dẫn dòng xí nghiệp sản xuất thủy điện Hòa Bình năm 1979 .

Hưng Yên

bình, tỉnh được xây dựng năm 1831 gồm những huyện Đông Yên, Kim Động, Thiên Thi, Tiên Lữ, Phù Dung của trấn Sơn Nam và Thần Khê, Hưng Nhân, Duyên Hà của trấn Tỉnh Nam Định. Vùng đất Hưng Yên nổi danh từ thời kỳ Trịnh – Nguyễn phân tranh đã nổi tiếng do có Phố Hiến, dân gian có câu “ Thứ nhất Kinh kỳ, thứ nhì Phố Hiến ” .

Lai Châu

Lai Châu có tên gọi xuất phát từ chữ châu Lay. Vào đầu thế kỷ X, những thủ lĩnh Thái chiếm vùng đất này đã đặt tên là Mường Lay, năm 1435 Dư địa chí của Nguyễn Trãi ghi là châu Lai do phiên âm chữ Lay .

Lạng Sơn

Thành Phố Lạng Sơn là một trong 13 tỉnh được vua Minh мạหg xây dựng tiên phong ở Bắc Kỳ ( năm 1831 ), tên gọi xuất phát từ tên tuổi “ xứ Lạng ” .
Trong ảnh là chợ Bắc Lệ nay thuộc xã Tân Thành, huyện Hữu Lũng, tỉnh Thành Phố Lạng Sơn, chụp năm 1915 .

Lào Cai

Tỉnh Lào Cai là cách phát âm của người địa phương đọc chữ Lão Nhai có nghĩa là Phố Cũ hoặc Chợ Cũ. Người địa phương thường gọi Bảo Thắng, là thành phố do Lưu Vĩnh Phúc kiến thiết xây dựng nằm ở vùng thuộc thị xã Tỉnh Lào Cai ngày này bằng tên Lảo Kay, sau đó người Pháp cũng phiên âm lại cách gọi đó bằng chữ Latinh là Lao Kai hoặc Lao Kay .

Nam Định

Tỉnh Nam Định có nguồn gốc tên gọi từ năm 1822, khi triều Nguyễn đổi tên trấn Sơn Nam Hạ thành trấn Tỉnh Nam Định, chữ Nam có từ thời Lê nghĩa là phía Nam chữ Định nghĩa là bình định là chữ nhà Nguyễn đặt cho nhiều vùng đất. Năm 1832 đổi trấn Tỉnh Nam Định thành tỉnh Tỉnh Nam Định ( gồm có cả Tỉnh Thái Bình và một phần đất Hà Nam lúc bấy giờ ). Năm 1890, Tỉnh Thái Bình tách ra thành tỉnh riêng và một phần phía bắc Tỉnh Nam Định tách ra để cùng một phần phía nam TP.HN lập thành tỉnh Hà Nam .
Trong ảnh là chợ Tỉnh Nam Định khoảng chừng năm 1900 – 1910 .

Ninh Bình

Ninh Bình nghĩa là yên bình, yên ổn, yên tĩnh có tên là đạo Tỉnh Ninh Bình từ năm 1822, năm 1831 đổi thành tỉnh Tỉnh Ninh Bình .

Phú Thọ

Phú Thọ là tên gọi xuất phát từ tên làng Phú Thọ thuộc tổng Yên Phú, huyện Sơn Vi, tỉnh Hưng Hóa mà lập nên thị xã Phú Thọ năm 1903. Sau đó Pháp chuyển tỉnh lỵ của tỉnh Hưng Hóa lên thị xã Phú Thọ và đổi tên tỉnh Hưng Hóa thành tỉnh Phú Thọ .

Quảng Ninh
Quảng Ninh là vùng đất lịch sử lâu đời. Ở khu vực Vịnh Hạ Long đã khảo cổ được di chỉ của người tiền sử từ 3000 – 1500 năm TCN. Khi hình thành Nhà nước đầu tiên của người Việt, thời Hùng Vương vùng đất Quảng Ninh nay là bộ Lục Hải. Một trong 15 bộ của nhà nước Văn Lang. Thời Phong kiến khu vực tỉnh Quảng Ninh hiện nay có tên lần lượt là: Lục Châu, łộ Đông Hải, łộ Hải Đông, trấn An Bang, tỉnh Quảng Yên. Sau này Quảng Yên được tách ra thành nhiều đơn vị khác, trong đó có Hải Ninh, về sau Quảng Yên cùng với Hải Ninh và các đơn vị này nhập thành Quảng Ninh bây giờ. Như vậy Quảng Ninh hiện nay gần như là Quảng Yên cũ.

Trong ảnh là Hòn Gai, chụp năm 1915 .

Sơn La

Sơn La có tên gọi xuất phát từ nguồn gốc của Nậm La, một phụ lưu cấp 2 của sông Đà. Sơn La trước năm 1479 hầu hết là chủ quyền lãnh thổ của vương quốc Bồn мคห, chính thức được รáp หнập vào Đại Việt năm 1749. Năm 1886 xây dựng châu Sơn La thuộc phủ Gia Hưng tỉnh Hưng Hoá. Năm 1895 xây dựng tỉnh Vạn Bú, tỉnh lỵ ở Vạn Bú tức Tạ Bú, ngày 23/8/1904 đổi tên thành tỉnh Sơn La .
Trong ảnh là toàn cảnh những khu công trình của Pháp trên đồi Khau Cả, Sơn La, khoảng chừng năm 1930 – 1940 .

Thái Bình

Tỉnh Thái Bình với tên gọi phủ Tỉnh Thái Bình gồm phần đông đất đai tỉnh Tỉnh Thái Bình thời nay có từ năm 1005 với sự kiện đổi tên đất Đằng Châu thành phủ Tỉnh Thái Bình. Ngày 21/3/1890 Toàn quyền Đông Dương ra nghị định lấy phủ Kiến xươหg tách từ tỉnh Tỉnh Nam Định và huyện Thần Khê tách từ tỉnh Hưng Yên và รáp หнập vào phủ Tỉnh Thái Bình để lập tỉnh Tỉnh Thái Bình, còn phủ sau đổi tên là Thái Ninh .
Trong ảnh là cảnh một khu chợ ở Tỉnh Thái Bình năm 1945 .

Vĩnh Phúc

Vĩnh Phúc được xây dựng vào ngày 12/2/1950 do tích hợp hai tỉnh Vĩnh Yên và Phúc Yên, nhưng do nhiều lần tách nhập nên Vĩnh Phúc lúc bấy giờ gồm có tỉnh Vĩnh Yên và thị xã Phúc Yên trước đây. Trong thời kỳ Pháp tạm chiếm đóng miền Bắc tiến trình 1946 – 1954, tỉnh này còn có tên gọi là tỉnh Vĩnh Phúc Yên .
Toàn cảnh thị xã Tam Đảo xưa .

Yên Bái

Yên Bái là tên được lấy từ tên làng Yên Bái, khi ngày 11/4/1900 thực dân Pháp xây dựng tỉnh Yên Bái gồm có phủ Trấn Yên, hai châu Văn Chấn, Văn Bàn và thị xã tỉnh lỵ đặt tại làng Yên Bái. Từ năm 1910 – 1920 chuyển châu Lục Yên ( tỉnh Tuyên Quang ) và châu Than Uyên ( tỉnh Lai Châu ) vào tỉnh Yên Bái, từ năm 1945 đã có nhiều lần tách nhập một phần hoặc cả tỉnh .