Top #10 Ý Nghĩa Tên Tuệ Tâm Xem Nhiều Nhất, Mới Nhất 2/2022 # Top Trend | https://helienthong.edu.vn

— Bài mới hơn —

3.2. Biện Thể

          (Giải) Đệ nhị, biện Thể. Đại Thừa kinh giai dĩ Thật Tướng vi chánh thể. Ngô nhân hiện tiền nhất niệm tâm tánh, bất tại nội, bất tại ngoại, bất tại trung gian, phi quá khứ, phi hiện tại, phi vị lai, phi thanh, hoàng, xích, bạch, trường, đoản, phương, viên, phi hương, phi vị, phi xúc, phi pháp, mịch chi liễu bất khả đắc, nhi bất khả ngôn kỳ vô. Cụ tạo bách giới thiên như, nhi bất khả ngôn kỳ hữu. Ly nhất thiết duyên lự, phân biệt, ngữ ngôn văn tự tướng, nhi duyên lự, phân biệt, ngữ ngôn, văn tự, phi ly thử, biệt hữu tự tánh. Yếu chi, ly nhất thiết tướng, tức nhất thiết pháp. Ly cố, vô tướng. Tức cố, vô bất tướng. Bất đắc dĩ, cưỡng danh Thật Tướng. Thật Tướng chi Thể, phi tịch, phi chiếu, nhi phục tịch, nhi hằng chiếu, chiếu nhi hằng tịch. Chiếu nhi tịch, cưỡng danh Thường Tịch Quang độ. Tịch nhi chiếu, cưỡng danh Thanh Tịnh Pháp Thân. Hựu, chiếu tịch, cưỡng danh Pháp Thân. Tịch chiếu, cưỡng danh Báo Thân. Hựu, tánh đức tịch chiếu, danh Pháp Thân. Tu đức chiếu tịch, danh Báo Thân. Hựu tu đức chiếu tịch, danh Thụ Dụng Thân. Tu đức tịch chiếu, danh Ứng Hóa Thân. Tịch chiếu bất nhị, thân độ bất nhị. Tánh tu bất nhị, chân ứng bất nhị, vô phi Thật Tướng. Thật Tướng vô nhị, diệc vô bất nhị. Thị cố, cử Thể tác y, tác chánh, tác pháp, tác báo, tác tự, tác tha. Nãi chí năng thuyết, sở thuyết, năng độ, sở độ, năng tín, sở tín, năng nguyện, sở nguyện, năng trì, sở trì, năng sanh, sở sanh, năng tán, sở tán, vô phi Thật Tướng chánh ấn chi sở ấn dã.

     () 第二。辨體。大乘經皆以實相為正體。吾人現前一念心性。不在內。不在外。不在中間。非過去。非現在。非未來。非青黃赤白。長短方圓。非香。非味。非觸。非法。覓之了不可得。而不可言其無。具造百界千如。而不可言其有。離一切緣慮分別。語言文字相。而緣慮分別。語言文字。非離此別有自性。要之。離一切相。即一切法。離故無相。即故無不相。不得已強名實相。實相之體。非寂非照。而復寂而恆照。照而恆寂。照而寂。強名常寂光土。寂而照。強名清淨法身。又。照寂強名法身。寂照強名報身。又。性德寂照。名法身。修德照寂。名報身。又。修德照寂。名受用身。修德寂照。名應化身。寂照不二。身土不二。性修不二。真應不二。無非實相。實相無二。亦無不二。是故舉體作依作正。作法作報。作自作他。乃至能說所說。能度所度。能信所信。能願所願。能持所持。能生所生。能讚所讚。無非實相正印之所印也。

          (Giải: Thứ hai, biện định cái Thể. Các kinh Đại Thừa đều lấy Thật Tướng làm Chánh Thể. Một niệm tâm tánh hiện tiền của chúng ta chẳng ở trong, chẳng ở ngoài, chẳng ở khoảng giữa, chẳng phải là quá khứ, chẳng phải là hiện tại, chẳng phải là tương lai, chẳng phải là xanh, vàng, đỏ, trắng, dài, ngắn, vuông, tròn, chẳng phải Hương, chẳng phải Vị, chẳng phải Xúc, chẳng phải Pháp. Tìm thì trọn chẳng thể được, nhưng chẳng thể nói là Không. Tạo đầy đủ bách giới thiên như, nhưng chẳng thể nói là Có. Lìa hết thảy duyên lự. Thật Tướng là chân tướng của nhân sinh và vũ trụ. Nhân sinh là chính mình, vũ trụ là hoàn cảnh sống. Đối với chúng ta, kinh Đại Thừa trọng yếu như thế, chẳng thể không hiểu rõ hoàn cảnh sống của chính mình. Nếu không hiểu, sẽ mê hoặc. Hễ mê, ắt điên đảo, coi thật là giả, tưởng tà là chánh, xem ác là thiện; bởi đó, xử thế, đãi người, tiếp vật và tư tưởng, quan niệm đều nẩy sanh sai lầm. Kinh Đại Thừa chỉ dạy chúng ta một con đường tu hành chánh xác, đó là chỗ thù thắng của kinh điển Đại Thừa vậy.

“ Ngô nhân hiện tiền nhất niệm tâm tánh, bất tại nội, bất tại ngoại ” ( một niệm tâm tánh hiện tiền của tất cả chúng ta chẳng ở trong, chẳng ở ngoài ) : Đoạn này rất khó hiểu, nhưng đúng là chân tướng thực sự được nói một cách đơn thuần, ách yếu. Triết học gọi Thật Tướng là Bản Thể. Trong kinh Đại Thừa, đức Phật lý giải, nói theo mặt Thể thì Thật Tướng là “ vô tướng ”. Muôn pháp trong ngoài hành tinh sanh ra như thế nào ? Thế giới hình thành như thế nào ? Động vật, thực vật sống sót như thế nào ? Đều là do một căn nguyên mà sanh ra. Căn nguyên ấy chính là Bản Thể. Những nhà triết học và tôn giáo trong ngoài nước lâu nay đều tìm tòi, Duy Tâm, Duy Thức. Từ ba ngàn năm trước, qua những kinh Đại Thừa đức Phật đã nói rồi. Đức Phật nói bản thể của vạn hữu là tâm .

Muôn vật trong trời đất đều do tâm biến hiện ra. Chủ thể biến hiện là một, còn những cái được biến hiện thì vô lượng vô biên. Kinh Đại Thừa gọi nó là Chân Như Bổn Tánh. Trong kinh Lăng Nghiêm, ngài A Nan kiếm chân tâm ở bảy chỗ, Phật đều bảo chẳng đúng. Chân tâm ấy không có hình tượng, không có sắc tố, không phải là quá khứ, hiện tại, vị lai, không phải là Hương, Vị, Xúc, Pháp ; nhưng nó là Có, chẳng phải là Không ! Phật pháp thường dùng chữ Không để tưởng tượng nó. “ Không ” chẳng phải là cái gì cũng chẳng có ! Tâm Kinh dạy : “ Sắc chính là Không, Không chính là Sắc. Sắc chẳng khác Không. Không chẳng khác Sắc ”. Sắc là nói về hiện tượng kỳ lạ, Không là nói về Bản Thể. Không là chủ thể biến hiện ( Năng Biến ), Sắc là cái được biến hiện ( Sở Biến ). Quý vị đều có kinh nghiệm tay nghề nằm mộng, cảnh giới trong mộng nhất định phải có một thứ gì đó biến hiện cảnh mộng, đem so với tâm tánh thì cảnh giới hiện ra trong mộng là sắc tướng, là do cái Thể có năng lực biến hiện đã biến hiện ra chúng. Sắc tướng là giả, Năng Biến ( cái có năng lực biến hiện ) là chân. Do vậy, tâm gọi là Chân Tâm, tánh được gọi là Bổn Tánh. Tướng là giả, bị biến hóa, nhưng Thể của những tướng được biến hiện thì là chân. Sự trang nghiêm nơi y báo và chánh báo trong mười pháp giới đều do nó biến hiện ra. Do vậy, Thiền gia có một câu nói : “ Nhược nhân thức đắc tâm, đại địa vô thốn thổ ” ( Nếu ai hiểu được tâm, đại địa không còn một tấc đất ) .

Chúng ta hiện đang mê, suốt ngày từ sáng đến tối tâm lý loạn xạ, tạo nghiệp, chịu báo, cảm nhận lục đạo luân hồi, trọn vẹn là do tự tâm biến hiện ra. Nếu rời khỏi tâm tánh thì chẳng có một pháp nào để hoàn toàn có thể đạt được ! Một niệm tâm tánh hiện tiền của tất cả chúng ta và một niệm tâm tánh chư Phật Như Lai chẳng hai, chẳng khác, nhưng có ý niệm thứ hai là sai rồi. Niệm thứ nhất là bổn tánh, niệm thứ hai là vọng tưởng, chấp trước. Nếu giữ được nhất niệm thì sẽ thành Phật. Niệm thứ nhất không có phân biệt, chấp trước, bình đẳng so với muôn pháp bên ngoài, chẳng có thiện hay ác, đúng hay sai, tà hay chánh, chân hay vọng, lợi hay hại, đó gọi là Nhất Chân Pháp Giới. Cái niệm thứ hai là phân biệt, chấp trước đã dấy lên. Ví như tôi cầm một vật nào đó trong tay, quý vị vừa trông thấy thì rất rõ ràng, nhưng qua ý niệm thứ hai liền tâm lý vật này có tên là gì. Nó vốn không có tên gọi, tên gọi là do người ngoài đặt cho nó, là giả danh. Gọi nó là một trang giấy, màu trắng, tức là khởi lên phân biệt, chấp trước. Từ đấy, dẫn khởi tham, sân, si, mạn. Chúng ta chẳng thể giữ cho niệm thứ nhất không đổi khác, hễ gặp bất kể cảnh giới nào liền lập tức mê. Đã mê lại càng thêm mê, luân chuyển trong sáu nẻo, chẳng có thuở thoát ra. Đấy chính là lý luận cơ bản trong Phật pháp, chẳng thể không biết. Dùng vàng chế ra vật phẩm, món nào cũng là vàng. Đồ vật hoàn toàn có thể đổi khác, chứ vàng chẳng đổi khác. Tướng hoàn toàn có thể đổi khác, chứ Thể chẳng biến hóa. Tâm tánh không bao giờ thay đổi nhưng tùy duyên, tùy duyên nhưng không bao giờ thay đổi. Đáng tiếc là tất cả chúng ta vọng niệm này tiếp nối vọng niệm khác, vĩnh viễn không ngưng nghỉ. Do đây, tướng mà mình thấy được là vọng tưởng. Nếu có một ngày nào đó, thật sự đạt được nhất tâm thì sẽ thật sự thấy được Thật Tướng. Thật Tướng là hết thảy pháp bất sanh bất diệt, trong kinh Phật gọi đó là Vô Sanh Pháp Nhẫn .

Chúng ta sử dụng cái tâm sanh diệt, nên thấy hết thảy pháp đều có sanh, có diệt. Con người có sanh, lão, bệnh, tử, quốc tế có thành, trụ, hoại, không. Chư Phật, Bồ Tát dùng tâm bất sanh bất diệt, thấy hết thảy pháp bất sanh bất diệt. Học Phật tức là muốn công phu đạt đến mức nhất tâm, sự tu học trong Đại Thừa Phật pháp xoay quanh điều này. Thiền Tông gọi nó là Thiền Định, còn pháp môn Niệm Phật gọi nó là Nhất Tâm. Nhất Tâm là Thiền Định, mà cũng là Thật Tướng, Chân Như, Bổn Tánh. Niệm Phật đến mức nhất tâm bất loạn thì sẽ có cùng một cảnh giới với minh tâm kiến tánh trong nhà Thiền. Trong phương diện Giáo Học, ắt cần phải lập ra thuật ngữ danh tướng để tiện cho con người đồng cảm. Danh từ là giả lập, chớ nên chấp trước. Căn bệnh lớn nhất trong những pháp trần gian là chấp trước. Chúng ta nghiên cứu và điều tra tâm tánh, nói đến những thứ danh tướng của Chân Như Bổn Tánh, tự mình đừng nên chấp trước, mà cũng đừng khiến cho người khác chấp trước. Tu học Phật pháp khó nhất là ở chỗ này. Đức Phật thuyết pháp suốt bốn mươi chín năm, nhưng kinh Kim Cang lại chép Ngài chẳng nói một pháp nào cả ! Đức Phật nói : “ Tu Bồ Đề ! Nhữ vật vị Như Lai tác thị niệm, ngã đương hữu sở thuyết pháp, mạc tác thị niệm. Hà dĩ cố ? Nhược nhân ngôn Như Lai hữu sở thuyết pháp, tức vi báng Phật, bất năng giải ngã sở thuyết cố ” ( Này Tu Bồ Đề ! Ông đừng nói : Như Lai nghĩ như thế này, ta sẽ có pháp để nói, đừng nghĩ như vậy. Vì sao ? Nếu có ai nói Như Lai có thuyết pháp thì chính là báng Phật vì chẳng thể hiểu lời ta nói ). Chúng ta chớ nên chấp trước pháp do đức Phật đã nói, phải đồng cảm sâu xa điều này. Hễ chấp sẽ mê !

Trong kinh Hoa Nghiêm, đức Phật nói : “ Hết thảy chúng sanh đều có trí huệ, đức tướng của Như Lai, chỉ vì vọng tưởng, chấp trước mà chẳng thể chứng đắc ”. Chỉ một câu này đã nói toạc ra cái gốc bệnh của tất cả chúng ta chính là phân biệt, chấp trước. Không có phân biệt, chấp trước thì chính là Nhất Chân pháp giới. Nhất Chân pháp giới là đời sống ở ngay trước mắt tất cả chúng ta. Phật pháp không có gì khác, chỉ là phá chấp mà thôi. Phá trừ Ngã Chấp, chứng quả vị A La Hán trong Tiểu Thừa ; Đại Thừa phá trừ Pháp Chấp, sẽ viên mãn thành Phật. Thành Phật chỉ là phá được cả hai chấp mà thôi ! Ngã Chấp là cội nguồn của Phiền Não Chướng, phá được Ngã Chấp thì đoạn được Kiến Tư phiền não. Phá được Kiến Tư phiền não sẽ thoát khỏi lục đạo luân hồi. Pháp Chấp là cội nguồn của vô minh, phá được Pháp Chấp sẽ đoạn vô minh. Kinh điển dù Đại Thừa hay Tiểu Thừa đều giảng như vậy. Do đó, có rất nhiều tông phái, vô lượng pháp môn, nhưng chiêu thức, lý luận đều nhằm mục đích giúp cho người học phá chấp và minh tâm kiến tánh. Nay tất cả chúng ta lựa chọn pháp môn Niệm Phật, niệm một câu A Di Đà Phật, dùng công phu chân thực của chính mình lại thêm bổn nguyện và oai thần của A Di Đà Phật gia trì, người căn tánh mưu trí chịu buông phân biệt, chấp trước xuống sẽ khai ngộ thuận tiện .

“ Mịch chi liễu bất khả đắc ” ( tìm kiếm thì trọn chẳng thể được ) là nói về tâm tánh. Đạt Ma Tổ Sư lúc diện bích ( nhìn vào vách ) chín năm tại chùa Thiếu Lâm, tìm chẳng được một ai để truyền pháp. Về sau, có Huệ Khả đến cầu pháp, chân thành, cung kính Tổ Đạt Ma. Tổ Đạt Ma ngồi yên, chẳng đếm xỉa gì tới. Nhằm bộc lộ lòng thành, Huệ Khả dùng đao chặt tay trái, dâng lên cúng dường. Tổ Đạt Ma cảm động, đồng ý. Huệ Khả liền hướng về Tổ Đạt Ma, thưa : “ Tâm con chẳng an, cầu đại sư an cái tâm cho con ”. Tổ Đạt Ma bảo : “ Ông đem cái tâm lại đây, ta sẽ an nó cho ông ”. Huệ Khả thưa : “ Con tìm tâm trọn chẳng thể được ! ” Đạt Ma nói : “ Ta đã an cái tâm cho ông rồi ! ” Huệ Khả vừa nghe liền đại ngộ. Trong cuộc đối thoại của hai vị, Tổ Đạt Ma nói mà chẳng nói, Huệ Khả nghe mà chẳng nghe .

Tâm là có, chẳng thể bảo là không có, tận hư không, trọn pháp giới, muôn pháp, bách giới, thiên như trong ngoài hành tinh đều do nó biến hiện, nhưng chẳng thể nói muôn pháp trong thiên hà là thật sự có. Chúng ta thấy chúng thật sự có, vì dùng cái tâm phân biệt để nhìn. Chân tướng là “ đương Thể tức Không ” ( ngay nơi bản thể của chúng là Không ). Kinh Lăng Nghiêm khai huệ nói : “ Đương xứ xuất sanh, tùy xứ diệt tận ” đóng mở hai mươi bốn lần, kẻ tâm thô, thiếu công phu định lực sẽ không thể nào phân biệt được ! Đức Phật nói giả tướng của vạn hữu trong ngoài hành tinh sanh diệt chỉ trong khoảng chừng khảy ngón tay. Trong một giây hoàn toàn có thể khảy ngón tay bốn lần. Trong một khảy ngón tay có sáu mươi sát-na, một sát-na có chín trăm lần sanh diệt. Do vậy, trong một giây vừa khít có hai cái mười tám ngàn lần sanh diệt thành một trăm giới. “ Thiên như ” : Trong mỗi một giới đều có mười như thị, .

Đại Thừa Bồ Tát chẳng chấp trước Có, mà cũng chẳng chấp trước Không. Thấp hơn Đại Thừa thì phàm phu chấp Có, Nhị Thừa chấp Không, chấp lệch vào một bên là sai. Chấp Có thì luân hồi trong lục đạo ; chấp không sẽ chẳng thể thấy được tánh. Chỉ có Đại Thừa Bồ Tát biết chân tướng thực sự, chẳng chấp bên nào hết. Tâm tánh chẳng thể được, cảnh giới cũng chẳng thể được. “ Chẳng thể được ” là thật ; nếu nghĩ là “ hoàn toàn có thể được ” thì đã hiểu sai rồi ! Thân thể của tất cả chúng ta và hết thảy muôn pháp đều biến hóa sanh diệt trong từng sát-na, không có một pháp nào hoàn toàn có thể được. Nếu thật sự hiểu rõ sâu xa thực sự này thì ý niệm được – mất sẽ nhạt bớt, phiền não, ưu lự hoàn toàn có thể giảm thiểu tới tám chín chục Xác Suất ! Đây là cảnh giới chẳng thể được, sự cũng chẳng thể được. Tâm kinh dạy : “ Vô trí, diệc vô đắc ”, không riêng gì Ngũ Ấm, Lục Nhập, Thập Bát Giới chẳng thể được, ngay trí Năng Chứng và pháp được chứng là Bồ Đề Niết Bàn cũng chẳng thể được. Do tâm tánh là Không, Năng Biến ( chủ thể biến hóa, tức tâm ) đã chẳng thể được, thì Sở Biến ( đối tượng người dùng bị biến hóa, tức hết thảy vạn pháp trong thiên hà ) làm thế nào hoàn toàn có thể được ? Nhập cảnh giới này thì chân tướng sẽ đồng cảm rành rành, ngộ nhập Thật Tướng thì sẽ tận tình tận hưởng hết thảy sự vật. Đừng nghĩ chúng là thật sự có, rồi mong chiếm hữu thì đời sống trên trần gian sẽ là du hý thần thông .

Bổn tánh tuyệt đối chẳng có tướng hư vọng, “ duyên lự ” là tư tưởng, “ phân biệt ” là kiến giải. Trong tâm tánh không có duyên lự, phân biệt. Cổ đức dạy kẻ sơ học phải khởi sự từ Căn Bản Trí. Căn Bản Trí là vô tri, cầu đạt tâm thanh tịnh, chứ không chấp thuận quý vị có kiến giải, có tư tưởng. Lìa hết thảy ngôn từ, văn tự, ở mãi trong cảnh giới Định. Người học Phật hiện thời dồn sức lực lao động vào nơi “ có hiểu biết, có tư tưởng, có kiến giải ”, sai lầm đáng tiếc quá đỗi ! Dẫu học Phật giỏi đến mấy, cũng chỉ hoàn toàn có thể gọi là nhà nghiên cứu Phật học lớn, chứ chẳng thể đoạn phiền não, đắc thanh tịnh tâm, liễu sanh tử, thoát tam giới, siêu phàm nhập thánh. Tu học Tịnh Tông khá đặc biệt quan trọng, ai nấy đều hoàn toàn có thể học, môn này không dạy người học trụ tâm nơi Định mà trụ nơi thương hiệu A Di Đà Phật. Trong tâm, trừ A Di Đà Phật ra, chẳng có một chút ít gì khác. Đấy gọi là “ có Tịnh Độ ”, hễ có Tịnh Độ, ắt sẽ sanh về Tịnh Độ .

Trong lúc học Phật thì vẫn có những chuyện trần gian cần phải làm, và lại càng phải sốt sắng làm. Phật pháp nằm trong trần gian, chẳng hoại tướng trần gian. Kinh Hoa Nghiêm nói “ sự lý vô ngại, sự sự vô ngại ”. Lý là tâm tánh, vĩnh viễn thanh tịnh. Sự là muôn hình tượng, làm chuyện trần gian đến mức viên mãn. Hoằng pháp trong hiện thời ắt phải dùng chiêu thức cởi mở. Trước mắt, bất luận nam, nữ, già, trẻ, ai nấy đều cầu danh vọng, lợi dưỡng. Nếu quý vị nói học Phật phải buông bỏ tiếng tăm, lợi dưỡng, sẽ chẳng có ai học. Phải kềm cặp chúng sanh, dùng giải pháp chánh xác để cầu tiếng tăm, lợi dưỡng thỏa mãn nhu cầu thỏa ý họ. Điều này trọn vẹn chẳng trái nghịch Phật pháp. Phật pháp vốn dạy con người lìa khổ được vui mà ! Hiểu rõ ràng đạo lý sau đây : “ Trong cửa Phật, có cầu ắt ứng. Cầu giàu sang, đắc giàu sang. Cầu sự nghiệp, đắc công danh ”. Gia đình mỹ mãn, xã hội an định, thiên hạ thái bình, điều gì cũng cầu được. Đọc kỹ và làm theo những chỉ dạy trong ba kinh Tịnh Độ thì sẽ đạt được những mục tiêu ấy .

“ Ly nhất thiết tướng, tức nhất thiết pháp. Ly cố, vô tướng. Tức cố, vô bất tướng. Bất đắc dĩ, cưỡng danh Thật Tướng ” ( Lìa hết thảy tướng chính là hết thảy pháp. Do “ lìa ”, nên vô tướng. Do “ chính là ”, nên chẳng phải không có tướng. Bất đắc dĩ, cưỡng gọi là Thật Tướng ). Thật Tướng cũng là một danh từ giả danh. Tách lìa tướng danh tự liền thấy được chân tướng của nhân sinh và ngoài hành tinh. Khi chẳng khởi một niệm sẽ thấy được chân tướng, phải dùng nhất tâm thì mới được. Còn dùng ý niệm sẽ là nhị tâm, rồi lại có phân biệt, liền trở thành tam tâm ! “ Vô tướng ” là không có phân biệt, vọng tưởng, chấp trước, chẳng có tướng hư vọng, chẳng có ý niệm. Chữ “ tức ” ý nói sống ngay trong trần gian này, chẳng tách rời trần gian, chẳng tách lìa, chỉ hoàn toàn có thể thụ dụng nó. Hết thảy muôn sự muôn pháp đều sống sót, là có tướng, nhưng chẳng chấp trước vào những tướng ấy, chúng sẽ chẳng khởi công dụng phụ, nhưng cũng chẳng thể buông bỏ nó. Hễ buông bỏ thì lại là chấp vào Không .

“ Thật Tướng chi Thể, phi tịch, phi chiếu, nhi phục tịch, nhi hằng chiếu, chiếu nhi hằng tịch ” ( Thể của Thật Tướng chẳng tịch, chẳng chiếu, nhưng lại vừa tịch vừa luôn chiếu, tuy chiếu nhưng luôn tịch ) : Câu này giảng rõ “ không rớt vào hai bên ”. Tịch và Chiếu hoàn toàn có thể lần lượt làm Thể và Dụng cho nhau. Thật Tướng tức là tâm tánh, bản thể của tâm tánh là Tịch, khởi tính năng là Chiếu. Cũng hoàn toàn có thể nói : Thể của tâm tánh là Chiếu, khởi công dụng là Tịch. Tịch là tĩnh mịch. “ Như như bất động ” là Tịch, “ rõ ràng rành rành ” là Chiếu. Lý luận này rất là trọng điểm. Khó thể hình dung Thật Tướng, lìa ngôn thuyết, lìa văn tự, lìa tâm duyên, hoàn toàn có thể soi bóng những thứ bên ngoài rõ ràng, rành rẽ. Tâm địa thanh tịnh, thông suốt khắp mười phương tam thế, được gọi là Chiếu, còn gọi là “ thần thông ”, phàm phu chẳng thể đồng cảm được. Loại năng lượng này chẳng phải riêng chư Phật mới có, mà hết thảy chúng sanh đều có, đáng tiếc là đã chôn vùi phần đông. Hiện thời, mắt hoàn toàn có thể thấy, tai hoàn toàn có thể nghe, mũi hoàn toàn có thể ngửi, đều thuộc về “ thần thông ”, nhưng năng lượng nhỏ nhoi đến mức mắt bị ngăn cách bởi một tờ giấy sẽ không hề thấy được, năng lực nghe của tai cũng giống như vậy. Năng lực ấy vì sao bị chôn vùi ? Chính là do một niệm bất giác mà có vô minh. Vô minh vừa khởi lên, năng lượng của Chiếu bị mất đi. Có một niệm khởi, liền bị chướng ngại thành mê, càng mê, càng sâu. Những đạo lý “ mê như thế nào, phương cách đả phá sự mê hoặc ấy hòng Phục hồi cái tâm thanh tịnh ” được sáu kinh, mười một luận sẽ đổi khác. Chiếu là Lý Trí, do Lý Trí sanh ra, vĩnh viễn chẳng đổi khác, Chiếu là chân tình. Phật pháp chẳng dùng chữ Tình, mà dùng một danh từ khác là Từ Bi. Từ Bi sanh từ Tịch và Chiếu, chẳng bị đổi khác .

Trong tựa đề kinh Vô Lượng Thọ có năm chữ “ thanh tịnh bình đẳng giác ”, “ thanh tịnh bình đẳng ” là Tịch, “ giác ” là Chiếu, từ đây, sanh ra đại từ, đại bi. Phải như thế nào thì mới hoàn toàn có thể khế nhập cảnh giới ấy ? Thực hiện từ “ thấy thấu suốt, buông xuống ”. “ Thấy thấu suốt ” là trí huệ, “ buông xuống ” là công phu. Phân biệt, chấp trước, ưu lự, vướng mắc thảy đều buông xuống. Trong đời sống thường nhật, sống tùy duyên, được đại tự tại. Đấy chính là niềm hạnh phúc chân chánh .

“ Chiếu nhi tịch, cưỡng danh Thường Tịch Quang độ. Tịch nhi Chiếu, cưỡng danh Thanh Tịnh Pháp Thân ” ( Tuy tịch mà chiếu nên cưỡng gọi là cõi Thường Tịch Quang. Tuy Chiếu mà Tịch, cưỡng gọi là Thanh Tịnh Pháp Thân ). Hai câu này ý nói : Một niệm tâm tánh nơi bổn tánh của tất cả chúng ta cũng chính là thân và cõi nước của chư Phật Như Lai. Thân và cõi nước chẳng hai, do Tịch và Chiếu chẳng hai, Tịch và Chiếu hoàn toàn có thể dùng làm Thể và Dụng lẫn cho nhau, đấy là chỗ dựa nguyên thủy để lập luận. Cõi Thường Tịch Quang và Thanh Tịnh Pháp Thân đều thuộc vào bản thể của tâm tánh. Ba thân của Phật, tức Pháp Thân, Báo Thân và Ứng Thân là từ Thể mà khởi Dụng, ”, toàn thể mộng chính là tâm, đây là điều hoàn toàn có thể khẳng định chắc chắn được. Hiện tại, tất cả chúng ta đang nằm mộng, y báo, chánh báo trang nghiêm, núi, sông, đại địa trong mười pháp giới đều do tự tâm biến hiện. Trừ chân tâm bổn tánh ra, không có một pháp nào để hoàn toàn có thể được. Phật và những đại Bồ Tát hiểu biết rõ ràng thực sự này, chứng đắc Pháp Thân, nên những Ngài nhất loạt đối đãi bình đẳng với chúng sanh. Bởi lẽ, hư không pháp giới và chính mình có cùng một Thể, há còn nói tới điều kiện kèm theo nào nữa ư ? Phật, Bồ Tát đối xử chúng sanh là chính mình đối xử chính mình, vì vậy mới “ vô duyên đại từ, đồng thể đại bi ”. Người đời không biết, La Hán, Bích Chi Phật và Quyền Giáo Bồ Tát đều chẳng hiểu rõ. Sơ Trụ Bồ Tát trong Viên Giáo phá một phẩm vô minh, chứng một phần Pháp Thân, đích thân chứng được chân tướng thực sự mới hiểu rõ. Tư tưởng, kiến giải, cách nghĩ, cách nhìn của họ chẳng khác chư Phật Như Lai. Đấy gọi là “ nhập Phật tri kiến ” .

“ Tịch chiếu cưỡng danh Báo Thân ” ( Tuy tịch mà chiếu nên cưỡng gọi là Báo Thân ). Tịch mà chiếu, đấy là công phu, tức tâm thanh tịnh khởi tính năng, tràn trề trí huệ, trở thành Báo Thân trí huệ, thấy tột cùng trọn khắp hư không pháp giới đều là hiện tượng kỳ lạ tịch diệt .

“ Tánh Đức tịch chiếu, danh Pháp Thân. Tu Đức chiếu tịch, danh Báo Thân ” ( Tánh Đức tịch mà chiếu, gọi là Pháp Thân. Tu Đức chiếu mà tịch, gọi là Báo Thân ). Đây là dựa theo Tánh và Tu để nói. Tánh là bổn tánh, Chân Như bổn tánh tịch chiếu ai nấy đều có, phàm và thánh giống nhau, nơi Phật chẳng tăng, tại phàm chẳng giảm. Nhưng Tu Đức thì khác nhau, Phật, Bồ Tát có tu hành, hiểu rõ chân tướng của thực sự. Phật, Bồ Tát dạy tất cả chúng ta thì tất cả chúng ta nửa tin, nửa ngờ, thậm chí còn chẳng thể đảm nhiệm. “ Chiếu ” là hiểu rành rẽ, rõ ràng, mắt thấy sắc, tai nghe tiếng. “ Tịch ” là như như bất động, so với cảnh giới chẳng khởi tâm động niệm. Đấy gọi là Tự Thụ Dụng Thân. Như như bất động, trọn chẳng có phiền não, thứ gì cũng rõ ràng, đầy ắp trí huệ, đấy là tự thụ dụng, mà cũng chính là sự tận hưởng chân chánh của chính mình .

Chúng ta sống rất khổ, phiền não nhiều như vậy, chẳng có Tịch. Trong tâm tâm lý lung tung, thứ gì ở bên ngoài cũng chẳng hiểu biết, nên không có Chiếu. Để giúp sức người khác thì chính mình phải Tịch Chiếu, chính mình phải như bất động. Hiểu rõ ràng, rành rẽ cảnh giới bên ngoài thì mới hoàn toàn có thể chỉ dạy người khác. Chính mình như như bất động thì mới chẳng bị người khác lôi kéo, do đó được đại tự tại. Chỉ có Chiếu không có Tịch mà độ chúng sanh và tiếp xúc chúng sanh, hễ tiếng tăm, lợi dưỡng đưa tới thì tham, sân, si, mạn nẩy sanh, sẽ bị chúng sanh lôi kéo. Ứng Hóa Thân là Tha Thụ Dụng Thân nhằm mục đích giúp sức người khác .

“Thật Tướng vô nhị, diệc vô bất nhị” (Thật Tướng không hai, mà cũng chẳng không hai). Vũ trụ vạn hữu, vốn là bình đẳng nhất tướng, trong ấy không có sai biệt. Kinh Kim Cang nói đại thiên thế giới là “nhất hiệp tướng”.

 

Phụ Chú:

– Tịch : Vắng lặng, không bao giờ thay đổi, miêu tả đặc tánh không bị đổi khác bởi trần cảnh hay bất kể nguyên do nào của bản thể ( tạm gọi là Thật Tướng ) .

– Chiếu : Khả năng nhận ra muôn pháp và hết thảy sự vật rõ ràng .

– Chân tâm ( Thật Tướng, Chân Như, bổn tánh v.v … ) không bao giờ thay đổi nhưng luôn phân biệt sự vật không sai lầm đáng tiếc, không mê hoặc, tuy nhận ra sự vật rõ ràng nhưng không vướng mắc, không bị sự vật ô nhiễm. Do chân tâm vượt ngoài đối đãi, thấy nó có Chiếu hay có Tịch đều chỉ là nhìn từ một góc nhìn, không hề nói chân tâm là Tịch hay Chiếu được. Tuy vậy, chân tâm luôn trọn đủ ý nghĩa Tịch và Chiếu, nên chân tâm cũng chẳng thể tách rời Tịch và Chiếu được. Điều này miêu tả bằng câu “ không bao giờ thay đổi nhưng tùy duyên, tùy duyên nhưng không bao giờ thay đổi ” hoặc nói như Yếu Giải “ phi tịch, phi chiếu, nhi phục tịch, nhi hằng chiếu, chiếu nhi hằng tịch ” ( chẳng phải tịch, chẳng phải chiếu, nhưng lại vừa tịch vừa luôn chiếu, tuy chiếu nhưng luôn tịch ) .

– Những danh từ như Thường Tịch Quang, Pháp Thân, Báo Thân ,

Ứng Thân, Thụ Dụng Thân, Ứng Hóa Thân là những danh từ được đặt ra nhằm mục đích miêu tả một góc nhìn nào đó của Thật Tướng, vì toàn bộ đều do Thật Tướng biến hiện .

– Nhấn mạnh đến góc nhìn “ tùy duyên nhưng không bao giờ thay đổi ” của Thật Tướng, ta có Thường Tịch Quang Độ. Tuy gọi là cõi, nhưng đây chỉ là cảnh giới chứng đắc của bậc Pháp Thân đại sĩ và chư Phật, chứ không phải là một cõi về mặt sự tướng. Tâm những vị ấy đồng cảm vạn pháp, nhận ra vạn pháp, nhưng không ô nhiễm bởi phân biệt, chấp trước, suy lường, thành kiến, hoàn toàn có thể sự sự vô ngại, nên gọi cảnh giới ấy là Thường Tịch Quang. Do vậy, Yếu Giải ghi “ Chiếu nhi Tịch, cưỡng danh Thường Tịch Quang độ ” ( Tùy duyên nhưng vẫn không bao giờ thay đổi thì cưỡng gọi là cõi Thường Tịch Quang ) .

– Nhấn mạnh đến góc nhìn “ không bao giờ thay đổi nhưng tùy duyên ” của Thật Tướng, thì gọi là Pháp Thân. Pháp Thân không có hình tướng, nó là Lý Thể. Lý ấy không bao giờ thay đổi, thường hằng, dung thông muôn pháp, sống sót trong vạn pháp. Chúng sanh đang mê thì Pháp Thân vẫn không mất, chư Phật chứng quả viên mãn, Pháp Thân vẫn không tăng thêm. Pháp Thân hoàn toàn có thể lưu lộ vô lượng tánh đức ( nên gọi là tùy duyên ). Do vậy Yếu Giải ghi : “ Chiếu nhi Tịch, cưỡng danh Thanh Tịnh Pháp Thân ” .

– Nếu từ Dụng nhìn ngược lại Thể, thì Thật Tướng có công dụng vô biên không chướng ngại, nhưng không do đó mà nó biến hóa nên gọi là Pháp Thân, nhấn mạnh vấn đề đến ý nghĩa “ vô tướng ” của Thật Tướng. Do vậy, sách Yếu Giải ghi “ Chiếu tịch, cưỡng danh Pháp Thân ” nhấn mạnh vấn đề ý nghĩa Tịch .

– Lại từ Thể nhìn ra Dụng, chú trọng nơi Dụng. Thật Tướng tuy không bao giờ thay đổi, nhưng có vô biên tính năng, công dụng ấy là trí huệ tràn trề, không gì chẳng biết, giống như gương tuy rỗng rang mà vẫn hoàn toàn có thể chiếu soi vô ngại tổng thể sự vật. Thật Tướng vô tướng ( rỗng rang, không phụ thuộc hình tướng ), nhưng không trở ngại tướng nào, tràn trề trí huệ, nhấn mạnh vấn đề ý nghĩa Thật Tướng tuy vô tướng nhưng chẳng phải là chẳng có tướng gì ( có tướng, nhưng không vướng mắc, trệ ngại nơi hình tướng ) nên sách Yếu Giải bảo “ Tịch chiếu cưỡng danh Báo Thân ”, tức nhấn mạnh vấn đề vào ý

nghĩa Chiếu .

– Tiếp đó, nhìn vào phương diện đức năng, tức vô biên phẩm đức ( tác dụng, đặc tánh ) của Thật Tướng để luận định. Xét theo Lý thì những đức năng ấy gọi là Tánh Đức. Do Thật Tướng không bao giờ thay đổi, nhưng có vô lượng vô biên đức năng, ai cũng sẵn đủ vô lượng vô biên những đức năng ấy. Nhấn mạnh đến góc nhìn “ xét theo Lý ( tức theo chân lý tuyệt đối ), ai cũng có sẵn vô lượng đức năng trong tự tánh ”, thực sự ấy tạm gọi là Pháp Thân, nên sách Yếu Giải ghi “ Tánh đức tịch chiếu, danh Pháp Thân ” .

– Tuy sẵn đủ đức năng nơi tự tánh, nhưng do đang mê hoặc, chấp trước, chúng sanh không hề thụ dụng được, phải tu tập để trừ khử vọng tưởng, chấp trước, phân biệt ( kinh diễn đạt điều này là phiền não, hoặc Tam Hoặc v.v.. ), hòng Phục hồi đức năng. Đức năng do tu tập mà đạt được từng phần gọi là Tu Đức. Do tu tập, sẽ từ từ Phục hồi toàn vẹn đức năng, những đức năng ấy chính là Dụng của Thật Tướng, vô biên lực dụng, không gì chẳng hiểu thấu nhưng chân tâm không bao giờ thay đổi, không bao giờ thay đổi nhưng vẫn tùy duyên. Nhấn mạnh đến sự Phục hồi đặc tánh “ tùy duyên nhưng không bao giờ thay đổi ” sau khi tu tập viên mãn, chứng đắc Phật Quả nên gọi là Báo Thân. Do vậy, sách Yếu Giải ghi là “ Tu Đức chiếu tịch, danh Báo Thân ” .

– Xét riêng phương diện Chiếu, vận dụng lực dụng của Chiếu để độ sanh, nhấn mạnh vấn đề đến góc nhìn Giác Tha hay Giác Hạnh Viên Mãn nơi quả vị Phật mà có giả danh là Thụ Dụng Thân và Ứng Hóa Thân .

– Thụ Dụng Thân chính là tên gọi khác của Báo Thân, chỉ nhấn mạnh vấn đề đến góc nhìn lực dụng vô ngại, được Phục hồi toàn vẹn sau khi tu tập viên mãn, chứng nhập bản tánh chân thường không bao giờ thay đổi ( Tịch ) của Thật Tướng, do vậy độ sanh không điều kiện kèm theo, không gì chẳng thể làm, không gì chẳng thể biết, không chúng sanh nào chẳng độ. Do vậy, sách Yếu Giải ghi là “ Tu Đức tịch chiếu, danh Thụ Dụng Thân ” .

– Tuy độ sanh vô tận, nhưng không thấy có chúng sanh để độ, chúng sanh và mình cùng một thể, thuyết pháp không gián đoạn nhưng không thấy có người nói pháp, không có người nghe pháp, không có pháp để nói v.v … Nói cách khác, đấy là “ tùy duyên nhưng không bao giờ thay đổi ”, dẫu độ sanh nhưng chẳng rời tự tánh, là cảm ứng đạo giao, giống như gõ vào chuông thì chuông bèn ngân. Do vậy, sách Yếu Giải ghi là “ Tu Đức chiếu tịch, danh Ứng Hóa thân ” .

Thể ở đây hoàn toàn có thể tạm hiểu như khái niệm bản thể trong triết học, tức thực ra của một sự vật, bản tánh chân thực của một sự vật. Có thể dùng một tỷ dụ để tạm hiểu như thế này. Các món như xuyến, vòng, bông tai, nhẫn, lắc, dây chuyền sản xuất v.v … đều chế bằng vàng, thì vàng là Thể của những vật đó. Những vật đó là Tướng của vàng. Tuy tướng khác nhau ( ta có những món trang sức đẹp khác nhau ), nhưng Thể chỉ một ( tức là chúng đều là vàng ). Các pháp, ngay cả những kinh Đại Thừa thiên sai vạn biệt nhưng Thể của chúng chỉ là một, cái Thể ấy tạm gọi bằng Thật Tướng. Ngay cả chữ Thật Tướng cũng chỉ là giả danh, tạm đặt ra để nhằm mục đích diễn đạt Thể mà thôi .

Hai cái mười vạn tám ngàn ( 2 × 10.800 = 21.600 ). Vì một giây có bốn lần khảy ngón tay, mỗi khảy ngón tay là 60 sát-na, mỗi sát-na có 900 lần sanh diệt, cho nên vì thế : 4×60 x900 = 21.600 lần .

Theo Viên Anh pháp sư, chữ “ lạng lẽ ” ( tịch tĩnh ) ở đây hàm nghĩa không bao giờ thay đổi. Chiếu hàm nghĩa tùy duyên. Tịch là nói tánh của Thật Tướng, không bao giờ thay đổi hàm nghĩa nơi thánh chẳng tăng, nơi phàm chẳng giảm. Nói Tịch hay nói Chiếu đều là phân biệt, còn thuộc trong vòng đối đãi, nên mới nói “ Thể chẳng phải là Tịch, chẳng phải là Chiếu ” .

Chữ “ tâm duyên ” ở đây hàm nghĩa dùng tâm ý thức phân biệt để suy lường .

: Pháp Môn Tịnh Độ Là Pháp Đốn Vượt Tam Giới

  • – : Giới – Định – Huệ Và Văn – Tư – Tu
  • – : Bố Thí – Lục Độ
  • – : Tín – Giải – Hành
  • – : Phương Pháp Tu Hành Các Tôn Giáo Cao Nhất Lên Cõi Trời, Không Vượt Thoát Khỏi Tam Giới
  • – : Vãng Sanh Bất Thoái
  • – : Pháp Môn Bất Tử
  • – : Lời Tựa và Nội Dung
  • — Bài cũ hơn —