Phần Lan – Wikipedia tiếng Việt

Phần Lan (tiếng Phần Lan: Suomi, tiếng Thụy Điển: Finland), tên chính thức là Cộng hòa Phần Lan (tiếng Phần Lan: Suomen tasavalta, tiếng Thụy Điển: Republiken Finland) là một quốc gia thuộc khu vực Bắc Âu. Phần Lan giáp với Thụy Điển về phía Tây, Nga về phía Đông, Na Uy về phía Bắc và Estonia về phía Nam qua Vịnh Phần Lan. Thủ đô của Phần Lan là Helsinki và cũng là thành phố lớn nhất.

Phần Lan là một trong những vương quốc dân cư thưa thớt nhất châu Âu. Theo số liệu tháng 12 năm 2020, dân số Phần Lan là 5.546.233 người [ 6 ]. Với tỷ lệ dân số chỉ khoảng chừng 18 người / km², Phần Lan trở thành vương quốc có tỷ lệ dân cư thấp nhất trong những nước Liên minh châu Âu. Ngôn ngữ chính tại nước này là tiếng Phần Lan – một ngôn từ thuộc hệ ngôn từ Ural [ 7 ]. Bên cạnh đó, tiếng Thuỵ Điển, tiếng Anh là 2 trong 3 ngôn từ chính thức của nước này .Trong lịch sử vẻ vang, Phần Lan từng là một phần của Thụy Điển trong một thời hạn dài ( từ thế kỷ XII đến thế kỷ XVIII ) rồi sau đó trở thành một đại công quốc dưới sự quản lý của Sa hoàng nước Nga trong khoảng chừng thời hạn 1809 – 1917. Ngày 6 tháng 12 năm 1917, Phần Lan chính thức công bố độc lập, trở thành một nước cộng hòa. Năm 1918, quốc gia Phần Lan non trẻ bị chia rẽ bởi cuộc nội chiến, giữa một bên là phe Hồng quân Bolshevik được tương hỗ bởi nước Nga Xô Viết, và một bên là phe Bạch vệ, được Đế chế Đức hậu thuẫn. Sau một nỗ lực ngắn để thiết lập một vương quốc, quốc gia đã trở thành một nền cộng hòa. Trong Thế chiến II, Liên Xô đã liên tục tìm cách chiếm đóng Phần Lan, Phần Lan đã buộc phải cắt nhượng cho Liên Xô một phần chủ quyền lãnh thổ của mình gồm có Karelia, Salla, Kuusamo, Petsamo và một số ít hòn đảo, nhưng quốc gia vẫn giữ được độc lập. Sau Chiến tranh quốc tế thứ hai, Phần Lan giữ vai trò như một nước trung lập và đã quy đổi nhanh gọn từ một nền kinh tế tài chính nông nghiệp lỗi thời sang nền kinh tế tài chính công nghiệp tăng trưởng cao vào hàng bậc nhất châu Âu .

Phần Lan đã xây dựng được một nhà nước phúc lợi rộng rãi dựa trên mô hình Bắc Âu, đem lại sự thịnh vượng cho toàn dân và trở thành một trong những nước có thu nhập bình quân đầu người cao nhất trên thế giới[8]. Phần Lan giữ thứ hạng cao trong các bảng xếp hạng quốc tế về giáo dục, khả năng cạnh tranh kinh tế, tự do dân chủ, chất lượng cuộc sống và phát triển con người [9][10][11][12]. Ngày nay, Phần Lan là một quốc gia dân chủ theo chế độ cộng hòa nghị viện. Nước này là thành viên của Liên Hợp Quốc từ năm 1955 và gia nhập Liên minh châu Âu vào năm 1995.

Tên gọi “Phần Lan” trong tiếng Việt bắt nguồn từ tiếng Trung. Trong tiếng Anh, Phần Lan được gọi là “Finland”. Bằng tiếng Trung, “Fin-land” được phiên âm là “芬蘭” (pinyin: “Fēn lán”). “芬蘭” có âm Hán Việt là “Phân Lan”. Do “Phân” là từ tế nhị, “Phân Lan” trong tiếng Việt được gọi chệch thành “Phần Lan”.[13]

Nguồn gốc xa xưa của tên gọi Phần Lan (Finland) được cho là bắt nguồn từ 3 tảng đá khắc chữ Rune (hệ thống chữ cái của người Bắc Âu từ thế kỉ I đến giữa thời Trung Cổ). 2 tảng đá được tìm thấy ở Uppland, một vùng nhỏ thuộc Thuỵ Điển, và trên 2 tảng này có khắc chữ finlonti (U 582). Tảng đá thứ 3 được tìm thấy ở Gotland, khu biển Ban-tích (Baltic Sea). Trên tảng này có khắc từ Finlandi (G319) và có từ thế kỷ XIII.[14]

Vườn vương quốc Repovesi ở đông nam Phần Lan . Vườn vương quốc Pyhä-Luosto .Phần Lan nằm ở phía Bắc châu Âu giữa vĩ tuyến 60 ° và 70 °. Một phần tư chủ quyền lãnh thổ là nằm phía bắc của Vòng Bắc Cực ( vĩ tuyến 66 ° 33 ‘ Bắc ). Các nước láng giềng của Phần Lan là Thụy Điển, Na Uy, Nga và Estonia. Phần Lan thuộc Bắc Âu. Gần 1/3 chủ quyền lãnh thổ của Phần Lan nằm ở phía bắc vành đai Bắc cực. Hồ chiếm 1/10 diện tích quy hoạnh của Phần Lan ( tổng số khoảng chừng 188.000 hồ ). Hồ lớn nhất là hồ Saimaa rộng hơn 4.400 km². Phần Lan có 179.000 hòn đảo khác nhau. Vào mùa đông, vịnh Bothnia ở phía Tây và Vịnh Phần Lan ở phía Nam ngừng hoạt động, ở những cảng phải sử dụng tàu phá băng. Đất của Phần Lan là đất băng giá. Trừ khu vực núi cao có đỉnh tới 1.342 m ở phía Tây Bắc, hầu hết diện tích quy hoạnh còn lại của Phần Lan là đất thấp .Khí hậu : Mùa hạ ấm. Mùa đông dài và rất lạnh, nhất là ở phía Bắc .Khí hậu của Phần Lan có sự độc lạ rõ ràng vào mùa đông và mùa hè, nhiệt độ trung bình hằng năm tại Thành Phố Hà Nội Helsinki khoảng chừng 5,3 °C. Nhiệt độ cao nhất vào ban ngày ở miền Nam của Phần Lan nhiều lúc cũng lên tới 25 °C. Vào mùa đông, nhất là vào những tháng 1, tháng 2, nhiệt độ thường thì là – 20 °C. Phía cực bắc của Phần Lan, dưới vòng Bắc Cực, vào mùa hè có đợt Mặt trời không lặn trong khoảng chừng 73 ngày, đó là những ngày ” hè đêm trắng “, còn vào mùa đông Mặt Trời không mọc trong 51 ngày liền .
Khoảng thế kỷ I, người Phần Lan ở Estonia đến định cư ở những vùng phía Nam và đến khoảng chừng năm 800 thì lan rộng ra đến vùng Karelia, nơi đã Open những dân cư khác gốc Phần Lan – Ugri, từ phía Đông đến lập nghiệp. Họ kinh doanh lông thú rất phát đạt đến khi bị người Viking cạnh tranh đối đầu dần khắp vùng phía Nam. Khoảng năm 1150, Vua Thụy Điển là Erik IX, triển khai cuộc Thập tự chinh chống lại những người Phần Lan vô thần .
Những người tiên phong Karelia, tranh của, tranh của Pekka Halonen ( 1900 )Cuộc chinh phục Phần Lan của Thụy Điển khởi đầu từ thế kỷ XII và kết thúc vào năm 1634. Trong cuộc cải cách tôn giáo ở thế kỷ XVIII, phần nhiều người Phần Lan theo giáo phái của Martin Luther. Nga xâm lược phần nhiều chủ quyền lãnh thổ của Phần Lan vào năm 1809. Trong suốt thế kỷ XIX, Phần Lan là một đại công quốc do Sa hoàng quản lý. Tình hình trở nên căng thẳng mệt mỏi khi Đế quốc Nga muốn củng cố quyền lực tối cao chính trị và tăng cường tác động ảnh hưởng văn hoá. Năm 1906, Phần Lan được phép triệu tập viện Duma ( QH ) riêng, nhưng đến năm 1910 lại bị bãi bỏ. Sau cuộc Cách mạng tháng Mười Nga năm 1917, nội chiến nổ ra tại Phần Lan. Năm 1919, Lenin và nhà nước Công nông của Nga đã buộc phải trao quyền tự do cho Phần Lan. Thể chế cộng hòa độc lập được xây dựng và sống sót cho tới ngày này. Sau Chiến tranh quốc tế thứ hai, Phần Lan giữ vai trò của một nước độc lập và trung lập. Phần Lan có được phần nào tác động ảnh hưởng do thực thi nghiêm chỉnh vai trò trung lập của mình, ví dụ vai trò chủ nhà của những phiên họp tiên phong của Tổ chức Hợp tác và An ninh châu Âu. Sau khi Liên Xô sụp đổ ( 1991 ), Phần Lan đã nối lại quan hệ thân thiện vốn có với Nga và xin gia nhập Cộng đồng châu Âu .Từ thế kỷ XII đến thế kỷ XIX, Phần Lan là phần chủ quyền lãnh thổ lớn thuộc Thụy Điển và sau đó là chủ quyền lãnh thổ tự trị của Nga sau năm 1809. Phần Lan trọn vẹn độc lập vào năm 1917. Trong Chiến tranh quốc tế thứ hai, Phần Lan đã bảo vệ được nền độc lập của mình và chống lại sự xâm lược của Liên Xô ( Chiến tranh Liên Xô-Phần Lan ) mặc dầu bị mất một phần chủ quyền lãnh thổ. Nửa thế kỷ sau đó, người Phần Lan đã có một sự biến hóa lớn từ một nền kinh tế tài chính nông-lâm nghiệp sang một nền kinh tế tài chính công nghiệp tân tiến đa dạng hoá, thu nhập đầu người tương tự với những nước Tây Âu. Là thành viên của Liên minh châu Âu, Phần Lan là vương quốc Bắc Âu duy nhất tham gia đồng tiền chung euro khởi đầu từ tháng 1 năm 1999 .

  • 1155: Người truyền giáo đầu tiên là người Thụy Điển đến Phần Lan. Phần Lan trở thành một phần lãnh địa của Thụy Điển.
  • 1809: Thụy Điển nhượng Phần Lan cho Nga hoàng, Nga hoàng tuyên thệ Phần Lan là nửa tự trị của lãnh địa đại công tước như một quốc vương lập hiến.
  • 1917: Phần Lan tuyên bố độc lập chủ quyền, cũng như không còn là vùng tự trị của Nga hoàng vào ngày 6 tháng 12.
  • 1919: Phần Lan thiết lập hiến pháp, trở thành một quốc gia cộng hòa với sự đứng đầu là tổng thống.
  • 1939-1940: Liên Xô tấn công Phần Lan, nổ ra cuộc Chiến tranh Liên Xô-Phần Lan (1940).
  • 1941-1944: Cuộc chiến tranh giữa Phần Lan và Liên Xô tiếp tục trong cuộc chiến Continuation War. Một phần lãnh thổ của Phần Lan phải nhựơng lại cho Liên Xô.
  • 1955: Phần Lan gia nhập Liên hiệp quốc và trở thành thành viên của Bắc Âu năm 1956.
  • 1995: Phần Lan trở thành thành viên của Liên minh châu Âu.

Phần Lan đã có hiến pháp và hình thức chính quyền sở tại riêng khi còn là một đại công quốc tự trị thuộc Nga. Hiến pháp Phần Lan được phê chuẩn ngày 17 tháng 7 năm 1919 và vẫn còn hiệu lực thực thi hiện hành cho đến ngày này. Về cơ bản, hiến pháp đảm bào những quyền công dân, mọi người bình đẳng trước pháp lý. Quyền lực tối cao nằm trong tay người dân, mà QH là đại diện thay mặt .
Quốc hội Phần Lan gồm một viện với 200 ghế. Năm 1928, luật QH được trải qua. Nó đặt ra cơ cấu tổ chức, nghĩa vụ và trách nhiệm và chính sách bầu cử QH. Các thành viên trong QH được bầu theo hình thức đại trà phổ thông đầu phiếu với nhiệm kỳ 4 năm. Theo hiến pháp, QH bầu ra thủ tướng, sau đó được tổng thống chỉ định vào nội các. Các bộ trưởng liên nghành cũng được tổng thống chỉ định dựa trên sự đề xuất kiến nghị của thủ tướng. Trong vài thập kỷ qua quyền lực tối cao của Tổng thống đã bị giảm bớt. Trong bản sửa đổi hiến pháp, có hiệu lực thực thi hiện hành vào năm 1991 hoặc 1992 cùng với một hiến pháp mới được soạn thảo năm 2000, được sửa đổi vào năm 2012, Tổng thống đã từ từ trở thành một nhân vật mang tính nghi thức. Nhiều tổng thống đã từng là thủ tướng trước khi đảm nhiệm chức tổng thống. Juha Sipilä là Thủ tướng Phần Lan hiện tại, đồng thời là quản trị Đảng Trung tâm Phần Lan, một đảng trung dung .Sau cuộc bầu cử QH ngày 19 tháng 4 năm năm ngoái, những ghế trong QH được phân loại như sau

Đảng Số ghế
Đảng Trung tâm 49
Đảng Người Phần Lan thực thụ (Perussuomalaiset) 38
Đảng Liên minh dân tộc 37
Đảng Dân chủ xã hội 34
Đảng Liên hiệp xanh 15
Liên minh cánh tả 12
Đảng Người Thụy Điển 9
Liên đoàn Thiên chúa giáo 5
Khác (đại diện tỉnh Åland) 1

Tổng thống là người đứng đầu nhà nước Phần Lan, được bầu cử với nhiệm kỳ 6 năm. Kể từ năm 1991, không vị tổng thống nào được tại nhiệm quá hai nhiệm kỳ liên tục. Tổng thống phải là người Phần Lan. Các chính đảng có tối thiểu 1 ghế trong QH được quyền đề cử ứng viên tổng thống. Tuy nhiên bất kể ai thu được hơn 20000 chữ ký cũng hoàn toàn có thể ứng cử .Thủ tướng hiện tại là Sanna Marin, nhậm chức kể từ 10/12/2019, tại tuổi 34, trở thành vị Thủ tướng hiện tại trẻ nhất đang ship hàng và Thủ tướng Phần Lan trẻ nhất từ trước tới nay .
Rút ra được những bài học kinh nghiệm kinh nghiệm tay nghề từ quá khứ của lịch sử dân tộc, trong nhiều thập kỷ qua, Phần Lan luôn theo đuổi đường lối đối ngoại trung lập tích cực ; giữ cân đối trong quan hệ với những nước lớn, những khối ; không tham gia những khối quân sự chiến lược ; ủng hộ và thôi thúc cho những hoạt động giải trí vì hoà bình, giải trừ quân bị, làm giảm căng thẳng mệt mỏi tình hình quốc tế ; ủng hộ đối thoại giữa những nước và khu vực .Năm 2008, Phần Lan là quản trị Tổ chức An ninh và Hợp tác châu Âu ( OSCE ). Phần Lan là thành viên tích cực của EU, ưu tiên quan hệ với những nước láng giềng như những nước Bắc Âu, Nga và những nước ở vùng biển Baltic. Mới đây, Phần Lan đã trải qua Hiệp ước Lisbon. Hiện nay, Phần Lan đang tham gia vào chương trình Đối tác vì Hoà bình ( Partnership for Peace ) với NATO và vẫn để ngỏ cửa cho việc tham gia NATO ( tuy nhiên phần đông dân Phần Lan muốn liên tục thực thi chủ trương đối ngoại trung lập ). nhà nước Phần Lan cũng chú trọng tăng trưởng quan hệ với châu Á, nhất là với những nền kinh tế tài chính đang nổi lên để tạo điều kiện kèm theo cho những doanh nghiệp Phần Lan xâm nhập thị trường, tăng trưởng hoạt động giải trí góp vốn đầu tư kinh doanh thương mại. Phần Lan trở thành thành viên của Tổ chức Thương mại Thế giới ( WTO ) năm 1950 ; Liên Hiệp Quốc và Hội đồng Bắc Âu năm 1955 ; Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế ( OECD ) năm 1969 ; link với Thương Hội Mậu dịch tự do châu Âu ( EFTA ) năm 1961 và trở thành thành viên khá đầy đủ năm 1986 ; ký Hiệp định Tự do thương mại với Cộng đồng Kinh tế châu Âu ( EEC ) năm 1973. Phần Lan gia nhập Liên hiệp châu Âu ( EU ) từ ngày 1 tháng 1 năm 1995 và EMU từ 1 tháng 1 năm 1999. Ngoài ra, Phần Lan cũng là thành viên của Tổ chức Quỹ tiền tệ Quốc tế ( IMF ) và nhiều ngân hàng nhà nước tăng trưởng trên quốc tế như ADB …

Phần Lan bao gồm 19 khu vực được gọi là maakunta bằng tiếng Phần Lan và landskap bằng tiếng Thụy Điển. Các khu vực được quản lý bởi các hội đồng khu vực đóng vai trò là diễn đàn hợp tác cho các đô thị của một khu vực. Nhiệm vụ chính của khu vực là quy hoạch vùng và phát triển doanh nghiệp và giáo dục. Ngoài ra, các dịch vụ y tế công cộng thường được tổ chức trên cơ sở các vùng. Hiện tại, khu vực duy nhất nơi một cuộc bầu cử phổ biến được tổ chức cho hội đồng là Kainuu. Hội đồng khu vực khác được bầu bởi các hội đồng thành phố, mỗi đô thị gửi đại diện theo tỷ lệ dân số của nó.

Phần Lan được chia thành 6 tỉnh Åland • Đông Phần Lan • Lapland • Nam Phần Lan • Oulu • Tây Phần Lan, ngoài những, Åland được chỉ định là tỉnh thứ bảy .

Các đời tổng thống Phần Lan
Tên Năm sinh, năm mất Thời gian tại chức
Kaarlo Juho Ståhlberg 1865–1952 1919–1925
Lauri Kristian Relander 1883–1942 1925–1931
Pehr Evind Svinhufvud 1861–1944 1931–1937
Kyösti Kallio 1873–1940 1937–1940
Risto Heikki Ryti 1889–1956 1940–1944
Carl Gustaf Emil Mannerheim 1867–1951 1944–1946
Juho Kusti Paasikivi 1870–1956 1946–1956
Urho Kaleva Kekkonen 1900–1986 1956–1981
Mauno Henrik Koivisto 1923–2017 1982–1994
Martti Oiva Kalevi Ahtisaari 1937– 1994–2000
Tarja Kaarina Halonen 1943– 2000–2012
Sauli Väinämö Niinistö 1948- 2012-

Hệ thống tư pháp của Phần Lan là một hệ thống luật dân sự được phân chia giữa những tòa án với thẩm quyền dân sự và hình sự thường xuyên với những tòa án hành chính có thẩm quyền đối với các vụ kiện giữa các cá nhân và chính quyền công. Luật Phần Lan được luật hóa và dựa trên luật pháp Thụy Điển và rộng hơn là bộ luật La Mã. Hệ thống tòa án dân sự và quyền tài phán hình sự bao gồm các tòa án địa phương (käräjäoikeus, tingsrätt), tòa phúc thẩm khu vực (hovioikeus, hovrätt), và Tòa án tối cao (korkein oikeus, högsta domstolen). Chi nhánh hành chính của tòa án bao gồm các tòa án hành chính (hallinto-oikeus, förvaltningsdomstol) và Tòa án Hành chính Tối cao (korkein hallinto-oikeus, högsta förvaltningsdomstolen). Ngoài các tòa án thông thường, có một vài tòa án đặc biệt ở chi nhánh nhất định của chính quyền. Ngoài ra còn có một Tòa án Tối cao chuyên luận tội đối với các cáo buộc hình sự chống lại các cán bộ cấp cao trong chính quyền.

Khoảng 92 % người dân Phần Lan công bố họ tin cậy vào lực lượng bảo mật an ninh của quốc gia này [ 16 ]. Tỷ lệ tội phạm của Phần Lan nhìn chung là không cao trong số những nước EU. Một số loại tội phạm có tỉ lệ ở trên mức trung bình, đáng chú ý quan tâm tỷ suất giết người ở Phần Lan là cao nhất trong số những nước Tây Âu [ 17 ] .Phần Lan đã chiến đấu can đảm và mạnh mẽ để chống lại thực trạng tham nhũng trong cỗ máy cơ quan chính phủ từ những năm 70 và 80. Ngày nay, Tổ chức Minh bạch Quốc tế xếp hạng Phần Lan là một trong những vương quốc ít tham nhũng nhất ở châu Âu .

An sinh xã hội[sửa|sửa mã nguồn]

Phần Lan có một trong những mạng lưới hệ thống phúc lợi xã hội thoáng đãng nhất quốc tế, một mạng lưới hệ thống bảo vệ tốt điều kiện kèm theo sống cho toàn bộ người dân. Kể từ những năm 1980, phúc lợi xã hội đã được cắt giảm, nhưng mạng lưới hệ thống phúc lợi xã hội của Phần Lan vẫn là một trong những mạng lưới hệ thống phúc lợi xã hội tăng trưởng tổng lực nhất và tân tiến nhất trên quốc tế. Hệ thống phúc lợi xã hội ( giáo dục, y tế, phúc lợi ) của Phần Lan được hình thành trong 3 thập niên tiên phong sau khi Chiến tranh quốc tế thứ hai kết thúc, ngày càng được bổ trợ, hoàn hảo .Kế hoạch hưu trí của Phần Lan được hình thành từ năm 1937, đến năm 1957, chính phủ nước nhà Phần Lan thiết lập một kế hoạch lương hưu cải tổ tạo cơ sở để hình thành Luật Hưu trí vương quốc. Vào đầu thập niên 60, kế hoạch lương hưu được bổ trợ thêm quỹ lương hưu tư nhân. Trợ cấp thất nghiệp được hình thành vào năm 1959 và 1960, thay đổi vào năm 1972. Trong những thập niên 50 và 60, việc kiến thiết xây dựng mạng lưới bệnh viện, giáo dục nhân sự về y tế được thực thi nhiều hơn. Hệ thống trợ cấp nhà ở được lan rộng ra trong thập niên 60, hướng tới hàng loạt dân cư. Từ năm 1963 tới đầu thập niên 70, mạng lưới hệ thống bảo hiểm sức khỏe thể chất được thiết lập. Các quan chức y tế mở màn nhấn mạnh vấn đề đến những bệnh viện địa phương nhỏ hơn .Vào thập niên 80, ngân sách xã hội ở Phần Lan chiếm khoảng chừng 24 % GDP. Chưa tới 10 % ngân sách này do những người lao động trả, phần còn lại do nhà nước và chủ lao động trả. Cuối thập niên 80, Bộ Quan hệ xã hội và Sức khỏe xu thế mạng lưới hệ thống phúc lợi trải qua năm vụ : Bảo hiểm xã hội, Phúc lợi xã hội, Y tế, Chính sách chất cồn và điều độ, và Lao động. Trong chính sách xã hội, có 3 ban hầu hết chịu nghĩa vụ và trách nhiệm về phúc lợi xã hội, y tế và bảo lãnh lao động. Các quan chức cấp tỉnh giám sát những chính quyền sở tại địa phương – những chính quyền sở tại tự trị – phân phối chăm nom xã hội. Đầu thập niên 80, nhà nước chi trả 30 % cho lương hưu và những dịch vụ xã hội, chủ lao động trả 40 %, chính quyền sở tại địa phương 15 % và người nhận dịch vụ trả phần còn lại. Mọi người dân ở Phần Lan không phải trả tiền cho giáo dục ở bất kể mức học nào, kể cả khi theo học trường y hay trường luật. Người về hưu ở Phần Lan được chăm nom tốt, còn người thất nghiệp được hưởng mức trợ cấp thất nghiệp rất cao .Hệ thống phúc lợi xã hội của Phần Lan phân phối cho người dân :

  • Các chương trình an sinh xã hội: Phần Lan chia phần lớn các chương trình an sinh xã hội thành các chương trình bảo đảm an sinh thu nhập và các chương trình cung cấp dịch vụ sức khỏe và xã hội. Nguồn thu của các chương trình an sinh xã hội gồm có hai lĩnh vực là: bảo hiểm xã hội, bảo đảm thu nhập cho người già, ốm đau, phụ nữ có thai, người thất nghiệp, hoặc bị thương tật liên quan đến lao động; và an sinh thu nhập được phân thành các loại như phúc lợi, bao gồm chuyển thu nhập để trợ cấp cho các gia đình thông qua các biện pháp như trả cho trẻ em, trợ cấp người mẹ, trả cho nạn nhân chiến tranh và gia đình họ, trợ cấp tài chính cho những người tàn tật hoặc có nhu cầu bức thiết. Các chương trình của bảo hiểm xã hội, chiếm tới 80% quỹ phúc lợi xã hội [18].
  • Lương hưu: Vào cuối thập niên 80, Luật Hưu trí quốc gia được cải cách nhằm mở ra cơ hội cho tất cả mọi người ở độ tuổi trên 16 tuổi. Thậm chí người nước ngoài ở Phần Lan, dù không phải là người có nguồn gốc Bắc Âu, cũng được hưởng lợi từ luật này nếu đã định cư ở Phần Lan trong thời gian ít nhất là 5 năm. Độ tuổi được hưởng lương hưu là 65 tuổi, và dao động trong độ tuổi từ 50 đến ngoài 60 nếu như người đó nằm trong trường hợp bị thất nghiệp lâu ngày [18].
  • Bảo hiểm ốm đau: Luật Bảo hiểm ốm đau ra đời vào năm 1963 nhằm cung cấp bảo hiểm y tế cho người dân Phần Lan. Luật quy định tất cả công dân đều được bảo hiểm khi đau ốm. Các hệ thống chăm sóc sức khỏe ở bệnh viện và trung tâm y tế đều miễn phí. Phụ nữ khi sinh đẻ được thanh toán trung bình khoảng 80% thu nhập trong thời gian 1 năm. Người sống độc thân có một con được thanh toán 92% thu nhập khi ốm đau, trong khi người độc thân không có con được thanh toán 77% thu nhập. Đối với những gia đình có cả vợ chồng và con, mức thanh toán bảo hiểm khi ốm đau là khoảng 90% thu nhập thực tế. Quỹ bảo hiểm ốm đau chủ yếu do nhà nước chi trả; người nhận trả thông qua 2% thuế thu nhập, chủ sử dụng lao động trả 1% lương của người lao động [18].
  • Bảo hiểm thất nghiệp: Năm 1984, Phần Lan cải cách Luật An sinh thất nghiệp, trong đó tất cả công dân Phần Lan từ 17 đến 64 tuổi đều được hưởng bảo hiểm khi thất nghiệp. Mức trợ cấp thất nghiệp cho những người đang tìm việc làm là 70 Fmk/ngày và người thất nghiệp được hưởng trợ cấp này ít nhất là 500 ngày trong giai đoạn 4 năm. Những người gần 60 tuổi không có khả năng tìm việc có thể được trợ cấp thất nghiệp tương đương với một mức lương tàn tật cho tới khi họ đến tuổi được nhận lương hưu. Giới chủ và nhà nước đóng góp 95% cho quỹ bảo hiểm thất nghiệp trong khi người lao động chỉ phải đóng 5% [18].
  • Trợ cấp gia đình: Được thực hiện dưới nhiều hình thức. Các bậc cha mẹ được nhận thông tin, hỗ trợ, tư vấn cha mẹ và sức khỏe, tiêm chủng trước và sau khi sinh con từ các bệnh viện chăm sóc sức khỏe của nhà nước. Các bệnh viện này cũng giám sát về thể lực, thần kinh và điều kiện xã hội của trẻ em và thu thập số liệu phục vụ cho các mục tiêu sức khỏe cộng đồng. Việc trợ cấp cho các gia đình có trẻ em được bảo đảm dưới hình thức trợ cấp cho trẻ em, chăm sóc trẻ em, trợ cấp nuôi dưỡng và trợ cấp cho người mẹ. Hình thức trợ cấp trẻ em có từ thập niên 30 và là một phần sớm nhất của hệ thống phúc lợi. Luật Trợ cấp trẻ em có từ năm 1948, trợ cấp cho gia đình có trẻ em dưới 16 tuổi là công dân cư trú ở Phần Lan, không phụ thuộc vào thu nhập hoặc quốc tịch của cha mẹ. Trợ cấp trẻ em được trả cho cha mẹ phải ở nhà chăm sóc con nhỏ hoặc phải thuê người làm việc đó [18]. Phần Lan đưa ra rất nhiều chính sách để giúp đỡ cho những cặp vợ chồng muốn có con. Thời gian nghỉ phép có lương của các bậc cha mẹ ở Phần Lan kéo dài đến 18 tuần cho người mẹ và 9 tuần cho người bố. Bên cạnh đó họ còn có khoảng 26 tuần nghỉ chung trong khi vẫn hưởng đến 70-90% tiền lương. Theo đó trợ cấp dành cho một đứa trẻ mới sinh trong mỗi gia đình là 100 euro/tháng, từ đứa thứ 3 là 141 euro/tháng và từ đứa thứ năm sẽ là 182 euro/tháng. Khoản tiền này có thể được cung cấp cho đến khi đứa trẻ 17 tuổi. Ngoài ra, mỗi khi một đứa trẻ được chào đời, chính phủ sẽ tặng cho mỗi bà mẹ một chiếc hộp dụng cụ với đầy đủ các đồ dùng cần thiết cho việc chăm sóc một đứa trẻ: đồ trẻ em, túi ngủ, đồ dùng ngoài trời, sản phẩm tắm cho em bé, tã lót và đệm. Hộp quà này hoàn toàn miễn phí và được áp dụng với tất cả mọi người không kể giàu nghèo.
  • Dịch vụ chăm sóc trẻ em: Luật có hiệu lực lâu dài là Luật Chăm sóc trẻ hàng ngày năm 1973, quy định tất cả các chính quyền địa phương cung cấp dịch vụ chăm sóc trẻ hàng ngày tốt nhất cho tất cả các gia đình có nhu cầu. Các trung tâm chăm sóc hàng ngày hoặc tư nhân chăm sóc trẻ em đến 7 tuổi được điều hành bởi chính quyền địa phương hoặc do sự ủy nhiệm của những người trông trẻ, tại gia đình của trẻ hoặc ở nơi khác. Luật Phúc lợi trẻ em năm 1983 quy định các chính quyền địa phương chăm sóc trẻ em, và cho quyền thực hiện các biện pháp đa dạng nếu một em bé bị bỏ rơi hoặc lạm dụng. Giữa thập niên 80, khoảng 2% trẻ em Phần Lan được luật này bao bọc. Một đạo luật khác năm 1983 quy định, nhục hình với trẻ em là bất hợp pháp.
  • Dịch vụ cho người tàn tật: Phúc lợi được quy định trong Đạo luật đối với người tàn tật năm 1946 quy định trách nhiệm điều trị cho những người tàn tật. Các cơ sở cung cấp nhà ở, đào tạo nghề, môi trường làm việc và phục hồi sức khỏe cho những người tàn tật hoạt động dưới sự giám sát của Ban Phúc lợi xã hội quốc gia, còn Ban Trường học quốc gia giám sát các trường dành cho trẻ em tàn tật. Các thiết bị đặc biệt, như chân tay giả… được cung cấp miễn phí [18].
  • Hệ thống y tế: vào nửa sau thập niên 80, người dân Phần Lan được hưởng tiêu chuẩn chăm sóc sức khỏe như ở các nước phát triển cao. Luật Chăm sóc sức khỏe 1972 đã tạo điều kiện cho sự ra đời của khoảng 2.000 trung tâm y tế địa phương, mỗi trung tâm phục vụ tối thiểu 10.000 người. Mục tiêu cơ bản của Luật 1972 là tạo điều kiện cho tất cả người dân Phần Lan tiếp cận bình đẳng với dịch vụ chăm sóc sức khỏe, không tính đến thu nhập hoặc nơi họ sinh sống. Do phần lớn dịch vụ của các trung tâm y tế không phải trả phí, nên chính quyền trung ương hỗ trợ để tăng nguồn tài chính cho các chính quyền địa phương. Sự hỗ trợ này chiếm khoảng từ 30% đến 65% chi phí khám chữa bệnh. Phần lớn các trung tâm y tế có ít nhất 3 bác sĩ và khoảng 7 nhân viên trên 1 bác sĩ. Do được đào tạo nghiệp vụ cao, các y tá có trình độ tương đương bác sĩ ở nhiều nước khác. Phần lớn các trung tâm đều có các bà đỡ có nghiệp vụ cao kết hợp với chương trình chăm sóc trước khi sinh tăng cường, khiến cho tỷ lệ trẻ sơ sinh tử vong ở Phần Lan rất thấp. Giữa thập kỷ 80, các bệnh viện công có khoảng 50.000 giường, 40 bệnh viện tư nhân có khoảng 3.000 giường. Có thêm 20.000 giường cho bệnh nhân tại các trung tâm y tế, viện dưỡng lão và các cơ sở phúc lợi khác [18].

Bản đồ tăng trưởng GDP của Phần Lan từ năm 1998 đến 2009.

Từ một nước bị tàn phá sau cuộc chiến tranh và phải trả một khoản bồi thường cuộc chiến tranh lớn giữa những năm 1940, Phần Lan đã tập trung chuyên sâu vào kiến thiết xây dựng quốc gia và đã vươn lên trở thành một trong những nền kinh tế tài chính có sức cạnh tranh đối đầu và tiềm năng tăng trưởng số 1 quốc tế với nhiều ngành công nghiệp mũi nhọn truyền thống cuội nguồn, có chuyên môn hoá cao như công nghiệp gỗ giấy ; luyện kim ; đóng tàu và vận tải đường bộ ; cơ khí ; điện tử, viễn thông ; công nghiệp hoá chất, dược phẩm. Về nông nghiệp, Phần Lan có 2.504 ngàn héc-ta đất trồng trọt ( chiếm 8 % diện tích quy hoạnh ), tự túc 85 % lương thực .nhà nước Phần Lan luôn chú trọng gắn giáo dục với nghiên cứu và điều tra và phát minh sáng tạo Giao hàng tăng trưởng kinh tế tài chính, trong đó lúc bấy giờ tập trung chuyên sâu vào công nghệ thông tin. Theo xếp hạng của Ủy ban Sáng tạo châu Âu ( EIS ), Phần Lan được xếp là nền kinh tế tài chính phát minh sáng tạo thứ ba quốc tế, vượt xa mức trung bình của châu Âu và Mỹ, được Diễn đàn Kinh tế Thế giới ( 2004 ) nhìn nhận là quốc gia có ” văn hóa truyền thống phát minh sáng tạo “, trong đó Nokia là một nổi bật. Tình hình kinh tế tài chính của Phần Lan lúc bấy giờ nhìn chung không thay đổi. Kinh tế Phần Lan đã chịu ảnh hưởng tác động của khủng hoảng kinh tế toàn thế giới ( thu nhập từ xuất khẩu, chiếm 40 % GDP của Phần Lan, đã giảm mạnh ). Tuy nhiên, theo nhìn nhận mới gần đây của EU, về trung và dài hạn, Phần Lan có nền kinh tế tài chính không thay đổi và vững chãi. Tỷ lệ thất nghiệp năm 2017 là là 7,5 % [ 19 ] ( 2010 là 8,4 % ) .Rừng chiếm 2/3 diện tích quy hoạnh của Phần Lan và những mẫu sản phẩm gỗ chiếm 45 % số ngoại tệ thu được ở Phần Lan. Điện thoại di động Nokia ( chính gốc là của Phần Lan ) hiện đang chiếm một số lượng đáng kể trong lệch giá của kinh tế tài chính Phần Lan. Chế biến sắt kẽm kim loại và cơ khí, đặc biệt quan trọng đóng tàu là những ngành công nghiệp chính của Phần Lan nổi tiếng về chất lượng và phong cách thiết kế. Ngoài gỗ, quặng đồng và thuỷ điện, những nguồn tài nguyên khác đều nghèo. Phần Lan có mức sống cao, mặc dầu việc kinh doanh với Nga, bạn hàng hầu hết, bị sụp đổ kéo theo những khó khăn vất vả nghiêm trọng về kinh tế tài chính trong những năm 1991 – 1992. Công nghiệp đánh cá có quy mô đáng kể. Nông nghiệp sản xuất ra những loại sản phẩm sữa cho tiêu dùng và cho xuất khẩu .Các đối tác chiến lược thương mại lớn nhất của Phần Lan là với Đức, Nga, Thụy Điển, Vương quốc Anh, Hoa Kỳ, Hà Lan và Trung Quốc. Phần Lan là vương quốc Bắc Âu duy nhất tham gia Eurozone .Tính đến năm năm nay, GDP của Phần Lan đạt 239,186 tỷ USD, đứng thứ 44 quốc tế và đứng thứ 17 châu Âu .
Phần Lan triển khai công nghiệp hóa nhanh gọn sau Thế chiến II, đạt mức GDP trung bình đầu người ngang bằng với Nhật Bản và Anh vào đầu những năm 1970. Ban đầu, phần nhiều sự tăng trưởng dựa trên hai nhóm ngành công nghiệp Giao hàng xuất khẩu, là ” công nghiệp sắt kẽm kim loại ” ( metalliteollisuus ) và ” công nghiệp rừng ” ( metsäteollisuus ). Các ” ngành công nghiệp sắt kẽm kim loại ” gồm có đóng tàu, gia công sắt kẽm kim loại, ngành công nghiệp xe hơi, những mẫu sản phẩm phong cách thiết kế như động cơ và điện tử, và sản xuất sắt kẽm kim loại ( thép, đồng và crom ). Những con tàu du lịch lớn nhất quốc tế được sản xuất tại những xưởng đóng tàu của Phần Lan. ” Ngành công nghiệp rừng ” gồm có lâm nghiệp, gỗ, bột giấy và giấy, và là một sự tăng trưởng hài hòa và hợp lý dựa trên nguồn tài nguyên rừng to lớn của Phần Lan ( 77 % diện tích quy hoạnh được bao trùm bởi rừng, phần đông là sử dụng tái tạo ). Trong ngành công nghiệp giấy và bột giấy, nhiều công ty lớn nhất có trụ sở tại Phần Lan ( Ahlstrom, Metsä Board, và UPM ). Tuy nhiên, nền kinh tế tài chính Phần Lan đang dần đa dạng hóa, lan rộng ra sang những nghành khác như điện tử ( như Nokia ), đo lường và thống kê ( Vaisala ), nguyên vật liệu vận tải đường bộ ( Neste ), hóa chất ( Kemira ), tư vấn kỹ thuật ( Pöyry ) và công nghệ thông tin ( ví dụ Rovio Entertainment, nổi tiếng với tựa game Angry Birds ), và không còn bị chi phối bởi hai ngành công nghiệp sắt kẽm kim loại và rừng. Tương tự như vậy, cấu trúc đã biến hóa, với tỉ trọng những ngành dịch vụ ngày càng tăng, và với việc công nghiệp sản xuất ngày càng giảm tầm quan trọng ; nông nghiệp thì chỉ chiếm một phần nhỏ .
Đường Aleksanterinkatu, một con đường thương mại ở Phần Lan .Thương mại đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế tài chính Phần Lan, trong đó xuất khẩu chiếm tỷ trọng GDP cao. Ba ngành xuất khẩu quan trọng trong nền kinh tế tài chính Phần Lan là : Các mẫu sản phẩm thép, máy móc và thiết bị vận tải đường bộ ( chiếm 31,1 % xuất khẩu ) ; Thiết bị quang học và điện tử ( chiếm 28 % xuất khẩu ) ; và loại sản phẩm giấy và gỗ ( chiếm 20,3 % xuất khẩu ). Công nghiệp Phần Lan phụ thuộc vào nhiều vào việc nhập khẩu nguyên vật liệu thô, máy móc và phụ kiện thiết yếu cho sản xuất những loại sản phẩm tiêu thụ trong nước cũng như cho xuất khẩu. Các thị trường xuất khẩu chính của Phần Lan là Đức, Thuỵ Điển, Nga và Mỹ. Các đối tác chiến lược nhập khẩu chính là Đức ( 15,8 % ), Nga ( 14 % ), Thụy Điển ( 13,7 % ) và Hà Lan ( 6,8 % ) .

Chính sách ODA[sửa|sửa mã nguồn]

Phần Lan luôn coi trọng chủ trương viện trợ và hợp tác tăng trưởng, coi đây là một phần quan trọng trong chủ trương đối ngoại của mình. Thông qua viện trợ tăng trưởng, Phần Lan mong ước tương hỗ những nước nghèo cải tổ điều kiện kèm theo kinh tế tài chính xã hội, qua đó tăng cường năng lực lôi cuốn góp vốn đầu tư và thương mại của những nước này ( ” aid for trade ” ), hướng tới xoá bỏ thực trạng nghèo khó trên quốc tế. Ngày 18 tháng 10 năm 2007, cơ quan chính phủ Phần Lan đã trải qua Chương trình chủ trương tăng trưởng ( Development Policy Programme ) mới với chủ đề ” Toward a Sustainable and Just World Community ” ( Hướng tới một hội đồng quốc tế công minh và vững chắc ). Mục tiêu chính của chủ trương tăng trưởng mới này là xoá đói giảm nghèo và tăng trưởng bền vững và kiên cố tương thích với những tiềm năng Thiên niên kỷ. Năm 2009, viện trợ tăng trưởng của Phần Lan đạt 0,5 % GDI. Phần Lan cam kết tăng viện trợ tăng trưởng lên 0,58 % GDI năm 2011 và 0,7 % GDI năm năm ngoái. Hiện nay, hợp tác tăng trưởng của Phần Lan tập trung chuyên sâu vào 8 nước đối tác chiến lược dài hạn gồm : Mozambique, Tanzania, Ethiopia, Zambia, Kenya ở châu Phi ; Nicaragua ở châu Mỹ Latin ; Nước Ta và Nepal ở châu Á .
Phần Lan đã đón hơn 3 triệu hành khách quốc tế trong năm 2017, trong đó có khoảng chừng 1,5 triệu đến từ những vương quốc Liên minh châu Âu [ 20 ]. Năm 2013, giá trị của ngành du lịch chiếm khoảng chừng 2,5 % GDP của Phần Lan, và phân phối khoảng chừng 136 700 việc làm [ 21 ] .Cảnh quan chiếm lợi thế tại Phần Lan là những cánh rừng thông dày và những ngọn đồi thoai thoải, cùng với một số lượng rất lớn những hồ nước và những con lạch. Phần lớn chủ quyền lãnh thổ Phần Lan là nguyên sơ và hoang sơ, gồm có 40 khu vui chơi giải trí công viên vương quốc từ bờ biển phía Nam của Vịnh Phần Lan đến vùng núi cao Lapland. Phần Lan cũng có những vùng dân cư với nhiều sự kiện và hoạt động giải trí văn hóa truyền thống .Các chuyến du lịch thương mại giữa những thành phố cảng biển và ven biển lớn ở khu vực Baltic, gồm có Helsinki, Turku, Tallinn, Stockholm và Travemünde, đóng một vai trò quan trọng trong ngành du lịch địa phương. Phần Lan được coi là quê nhà của Thánh Nicholas hay Ông già Noel, sống ở vùng Lapland phía bắc [ 22 ]. Ông già Noel thường được cho là sống ở Rovaniemi vùng Lapland phía bắc Phần Lan. Ở thị xã Rovaniemi còn có một ngôi làng gọi là Làng Santa Claus cho khách du lịch đến thăm quan .Khu vực nằm bên trong Vòng Bắc Cực, vào giữa mùa đông thường xảy ra hiện tượng kỳ lạ đêm vùng cực, một khoảng chừng thời hạn mà mặt trời không mọc trong nhiều ngày hoặc vài tuần, hoặc thậm chí còn hàng tháng, vào giữa mùa hè thì lại có hiện tượng kỳ lạ ban ngày vùng cực, khi mà mặt trời vẫn hoàn toàn có thể chiếu sáng ngay cả khi nửa đêm ( 73 ngày liên tục, tại điểm cực bắc ). Hiện tượng cực quang cũng tiếp tục Open ở vùng phía bắc quốc gia vào một thời gian nhất định trong năm, đây cũng là thời gian lôi cuốn khách du lịch .Ngoài ra, vào mùa đông, Phần Lan mang đến thời cơ trượt tuyết băng đồng và trượt tuyết trên núi cao. Nhiều khu nghỉ mát trượt tuyết nổi tiếng nằm ở phía bắc của vòng Bắc cực ở Lapland, ngoài những còn có khu trượt tuyết Kuusamo ở phía đông bắc của tỉnh Oulu và Himos ở Jämsä, chỉ cách Helsinki 200 km về phía bắc .
Dân số của Phần Lan giao động 5.500.000 người. Phần Lan là vương quốc rộng xếp thứ 6 ở châu Âu, tỷ lệ dân số trung bình 18 người / km². Hầu hết người Phần Lan, khoảng chừng 54 % sống ở ngoại ô, trong đó 26 % sống ở khu vực vùng xa thành phố. Thành phố Helsinki, Hà Nội Thủ Đô của Phần Lan, có số dân khoảng chừng 626.305 người, Espoo có khoảng chừng 267.906 người và Vantaa có khoảng chừng 212.473 người ; một số ít những thành phố lớn khác là Tampere với số dân 223.238 người, Bắc Oulu 196.860 người, Turku 184.190 người, Jyväskylä 135.591 người và Kuopio là 111.000 người .

  • Có khoảng 1,8 triệu gia đình ở Phần Lan. Trong số đó các gia đình có trẻ em chiếm khoảng 1,9%. Vào năm 1960 con số đó là 2,27%. Năm 1999 số lực lượng lao động nữ chiếm 2.5 triệu người. Mức thu nhập của họ chiếm 80% so với nam giới và tuổi thọ của nữ giới cũng cao hơn nam. Trung bình tuổi thọ của nữ giới là 83 trong khi nam giới là 76. Trong cuộc bầu cử quốc hội năm 1999, nữ chiếm 74 ghế trong tổng số 200.
  • Chính sách phúc lợi xã hội của Phần Lan rất tốt.Trẻ em khi sinh ra được chính phủ trợ cấp 100 Euro/tháng cho đến khi đủ 18 tuổi. Phụ nữ mang thai được nghỉ 20 tuần nhưng vẫn được trả 100% lương.

Phần Lan là một trong những nước có tỉ lệ dân số theo tôn giáo lớn nhất châu Âu, tuy tỉ lệ này đang giảm. Vào năm năm trước, khoảng chừng 74 % dân số thuộc Giáo hội Lutheran và khoảng chừng 2 % thuộc những nhánh Cơ Đốc giáo khác, hay những hội đồng tôn giáo khác. Khoảng 23,5 % dân số không theo tôn giáo nào. Giáo hội Chính thống giáo Phần Lan chỉ có dưới 60.000 Fan Hâm mộ, tức là khoảng chừng 1.1 % dân số. Tự do tín ngưỡng ở Phần Lan đã được bảo vệ từ năm 1923 .Sự mộ đạo của Phần Lan đã được miêu tả một cách khá đúng là ” theo đạo nhưng không tiếp tục dự lễ “, vì hầu hết dân cư không liên tục dự những buổi lễ hàng tuần tại nhà thời thánh. Vai trò của nhà thời thánh trong đời sống ở Phần Lan được bộc lộ rõ hơn trong những sự kiện hàng năm như lễ Giáng Sinh, lễ Phục Sinh, và trong những sự kiện quan trọng trong mái ấm gia đình như lễ báp têm, lễ kiên tín, lễ cưới, và lễ tang .Cơ Đốc giáo đến Phần Lan vào thế kỷ XI từ cả hai phía Đông và Tây, khi đó Phần Lan thuộc tác động ảnh hưởng của Thụy Điển. Vua Thụy Điển Gustavus Vasa, người trị vì trong thế kỷ XVI, quyết định hành động ủng hộ cuộc Cải cách Tin Lành trong vương quốc của mình, tác dụng là gia tài của Giáo hội Công giáo ở Phần Lan bị tịch thu và Giáo hội Lutheran dần được thiết lập là giáo hội dân tộc bản địa cùng với Giáo hội Chính thống giáo Phần Lan sau này .Trong một thời hạn dài, Giáo hội đảm trách những tính năng quan trọng của xã hội như hành chính địa phương và giáo dục, trong khi đó Nhà nước tham gia một phần trong những yếu tố như hành chính, kinh tế tài chính và điều lệ của Nhà thờ. Giáo hội Tin Lành Lutheran Phần Lan và Giáo hội Chính thống giáo Phần Lan liên tục giữ vai trò đặc biệt quan trọng, như trong trường học và những nghi lễ vương quốc .Tín đồ của hai nhà thời thánh này trả một khoản lệ phí thành viên dưới dạng thuế nhà thời thánh khoảng chừng từ 1 đến 2.25 %, tùy theo từng giáo xứ, được thu cùng với thuế thu nhập. Ngoài ra, những nhà thời thánh còn được hưởng một phần nhỏ trong thuế doanh nghiệp do những công ty, tập đoàn lớn hay những tổ chức triển khai tương tự như như vậy góp phần. Khoản tiền này được dùng để hỗ trợ quản lý những hoạt động giải trí tăng trưởng xã hội của nhà thời thánh như tạo việc làm cho thanh thiếu niên, việc làm xã hội, tu sửa nghĩa trang, duy trì sổ ĐK của nhà thời thánh, tu sửa những khu nhà lịch sử vẻ vang .
Tiếng Phần Lan là thành viên của hệ ngôn từ Ural. Tiếng Phần Lan, tiếng Estonia nằm trong một nhánh ; tiếng Hungary thuộc nhóm lớn trong nhóm ngôn từ người Ugri. Ngôn ngữ chính thức của Phần Lan là tiếng Phần Lan và tiếng Thụy Điển được sử dụng như tiếng mẹ đẻ khoảng chừng 6 % số dân. Một tiếng bản xứ nữa là tiếng Sami được sử dụng bởi những người Sami, còn được biết đến là người Lapp ( miền Bắc của Scandinavia ). Tiếng Thụy Điển Open ở Phần Lan do có lịch sử dân tộc trước đây, thời kỳ đầu thế kỷ XIII cho đến năm 1809, lúc đó Phần Lan là một phần của lãnh địa Thụy Điển .Số lượng người quốc tế sống tại Phần Lan khoảng chừng 322,700 người vào năm năm trước, đa phần tới từ Nga, Estonia, Somalia, Iraq và Nam Tư [ 23 ] .
Hệ thống giáo dục ở Phần Lan là trọn vẹn không tính tiền. Chương trình mần nin thiếu nhi được dành cho trẻ từ 4 tuổi đến 6 tuổi. Chương trình giáo dục tổng lực bắt buộc trong 9 năm khởi đầu từ 7 tuổi và kết thúc vào 16 tuổi. 6 năm tiên phong học viên sẽ được học với 1 giáo viên duy nhất dạy những môn ( trừ những môn năng khiếu sở trường ), 3 năm cuối cấp sẽ được học theo từng giáo viên bộ môn như : Toán, Khoa học, Kinh tế mái ấm gia đình, … Đại học hoặc học nghề sau đại trà phổ thông ( bắt buộc ) được thực thi ở năm 17 tuổi. Các trường Đại học ở Phần Lan :

Biểu tượng vương quốc[sửa|sửa mã nguồn]

Trinh nữ Phần Lan (tiếng Phần Lan: Suomi-neito, tiếng Thụy Điển: Finlands mö) là một cô gái trẻ được xây dựng thành một hình tượng quốc gia (National personification) của Phần Lan, biểu thị sự hiện thân của Phần Lan.

Mặc dù được ghi nhận là một trong những nền văn học xuất hiện muộn nhất địa vực Âu châu, nhưng Phần Lan thường được mệnh danh Ngôi sao phương Bắc vì những thành tựu khiến nhiều nền văn học lâu đời phải ganh tị. Cái bất thường của nền văn học từ khi ra đời đến nay là hầu như không song hành ngôn ngữ bản địa, cho dù ngôn ngữ Phần Lan cũng có lịch sử ít nhất một thiên niên kỷ. Trong thực tế, các giá trị tạo nên văn học Phần Lan lại không hữu hạn trong quốc thổ mà tỏa ra Thụy Điển, Estonia, Nga và đặc biệt Karjala – miền đất huyền thoại này được coi là khởi thủy dòng văn học tiếng Phần Lan. Do vậy, thuật ngữ văn học Phần Lan còn có tính quốc tế khá cao.

Do nhiều biến cố lịch sử, văn học Phần Lan được cấu thành trên ba ngôn ngữ: Thụy Điển, Phần Lan và Nga. Vì thế, đôi khi Phần Lan được giới phê bình gọi vui là nền văn học chân thiên nga[24]. Trong đó, văn học tiếng Thụy Điển có giá trị cao nhất và khối lượng cũng đồ sộ hơn cả. Sau Đệ nhị Thế chiến, chính phủ Phần Lan cùng các cơ quan đặc trách văn hóa đã ra sức nâng tầm tiếng Phần Lan thành quốc ngữ, qua đó dòng văn học tiếng Phần Lan có sự tăng trưởng mạnh hơn các thời trước. Tuy nhiên, dòng nghệ thuật này lại phổ biến ở Karjala và Estonia hơn.

Ngày nay, văn học Phần Lan được san xẻ chung giữa Na Uy, Thụy Điển, Phần Lan, Nga và Estonia như bộ phận rất quan trọng cấu thành văn hóa mỗi quốc gia. Tại Latvia, Lietuva, Belarus và Ba Lan, thậm chí Komi từ đầu thập niên 1990 đã diễn ra những tranh luận sôi nổi trong vấn đề có hay không công nhận dòng văn học Phần Lan từng tồn tại trong diễn trình lịch sử văn học xứ mình, nhiều quan điểm cho rằng đã tới lúc cần chấp nhận nó như một đặc tính bản địa thay vì coi là ngoại lai.

Liên kết ngoài[sửa|sửa mã nguồn]