Lịch sử Thành phố Hồ Chí Minh – Wikipedia tiếng Việt

Thành phố Hồ Chí Minh là tên gọi chính thức từ tháng 7 năm 1976 khi được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đổi tên từ Sài Gòn-Gia Định. Hiện nay, tên gọi Sài Gòn vẫn được dùng phổ biến và được nhắc đến như tên bán chính thức của thành phố này.

Những ghi chép tiên phong về tên gọi Sài Gòn[sửa|sửa mã nguồn]

Địa danh Sài Gòn trên 300 năm và từng được dùng để chỉ một khu vực với diện tích khoảng 1 km² (Chợ Sài Gòn) có đông người Hoa sinh sống trong thế kỷ 18. Địa bàn đó gần tương ứng với khu Chợ Lớn ngày nay.

Năm 1747, theo danh mục các họ đạo trong Launay, Histoire de la Mission Cochinchine, có ghi chép “Rai Gon Thong” (Sài Gòn Thượng) và “Rai Gon Hạ” (Sài Gòn Hạ).

Theo Phủ biên tạp lục của Lê Quý Đôn viết năm 1776, năm 1674, Thống suất Nguyễn Dương Lâm vâng lệnh chúa Nguyễn đánh Cao Miên và phá vỡ “Lũy Sài Gòn” (theo Hán Nho viết là “Sài Côn”). Đây là lần đầu tiên chữ “Sài Gòn” xuất hiện trong tài liệu Việt Nam. Vì thiếu chữ viết nên chữ Hán “Côn” được dùng thế cho “Gòn”. Nếu đọc theo Nôm là “Gòn”, còn không biết đó là Nôm mà đọc theo chữ Hán thì là “Côn”.

Sau đó, danh xưng Sài Gòn được dùng để chỉ các khu vực nằm trong lũy Lão Cầm (năm 1700), lũy Hoa Phong (năm 1731) và lũy Bán Bích (năm 1772), chỉ với diện tích 5 km².

Ngày 11 tháng 4 năm 1861, sau khi chiếm được thành Gia Định, Phó Đô đốc Léonard Charner ra nghị định xác định địa giới thành phố Sài Gòn (tiếng Pháp: Ville de Saigon) bao gồm cả vùng Sài Gòn và Bến Nghé. Đến ngày 3 tháng 10 năm 1865, quyền thống đốc Nam Kỳ, chuẩn đô đốc Pierre Roze đã ký nghị định quy định lại diện tích của thành phố Sài Gòn chỉ còn 3km2 tại khu Bến Nghé cũ, đồng thời cũng quy định thành phố Chợ Lớn (tiếng Pháp: Ville de Cholon) tại khu vực Sài Gòn cũ. Từ đó tên gọi Sài Gòn chính thức dùng để chỉ vùng đất Bến Nghé, và tên Chợ Lớn để chỉ vùng Sài Gòn cũ. Sau năm 1956, tên gọi Sài Gòn được dùng chung để chỉ cả hai vùng đất này.

Các giả thuyết về nguồn gốc tên gọi Sài Gòn[sửa|sửa mã nguồn]

Đây là thuyết được đưa ra bởi 2 người Pháp là Aubaret và Francis Garnier. Theo Aubaret, Histoire et description de la Basse-Cochinchine, và Garnier, Cholen, thì năm 1778 người Hoa ở Cù lao Phố (Biên Hòa) vì giúp đỡ nhà Nguyễn nên bị quân nhà Tây Sơn tìm kiếm phải rút lui theo con sông Tân Bình (Bến Nghé), chọn vùng đất ở giữa đường Mỹ Tho đi Cù lao Phố mà xây dựng tân sở, ngày sau thành phố Chợ Lớn. Năm 1782 họ lại bị quân nhà Tây Sơn tìm kiếm một lần nữa. Ít lâu sau họ xây dựng lại, đắp đê cao nên đặt tên chỗ mới là “Tai-Ngon”, hoặc “Tin-Gan”, phát âm theo tiếng Quảng Đông là “Thầy Ngồn” hay “Thì Ngòn”, đọc theo âm Hán-Việt là “Đề Ngạn” (堤岸). Hiện tại, Đề Ngạn (堤岸) vẫn được dùng bởi cộng đồng người Hoa để chỉ khu vực Chợ Lớn. Người Hoa hiện dùng từ “Tây Cống” (西貢), âm Quảng: “Xây-cóon” để gọi danh từ Sài Gòn và để chỉ khu vực Bến Nghé.

Thuyết này được hai học giả là Vương Hồng Sển và Thái Văn Kiểm đồng ý chấp thuận. Quả thật, trên phương diện ngữ âm, thì ” Thầy Ngòn “, ” Xi Coón ” rất giống ” Sài Gòn “. Trong map của Trần Văn Học vẽ năm 1815 thì địa điểm Sài Gòn Xứ ( 柴棍處 ) được dùng để chỉ khu vực gần Chợ Lớn lúc bấy giờ, [ 1 ] củng cố thêm giả thiết liên hệ giữa Sài Gòn và Thầy Ngòn – Đề Ngạn .

Củi và Bông gòn[sửa|sửa mã nguồn]

Có thuyết nói rằng ” Sài Gòn ” bắt nguồn từ chữ ” Sài ” theo chữ Hán là củi và ” Gòn ” là chữ Nôm chỉ cây bông gòn .

“Sài là mượn tiếng viết theo chữ Hán có nghĩa là củi gỗ, Gòn là tiếng Nam chỉ bông gòn. Người ta nói rằng tên đó phát sinh bởi sự kiện nhiều cây bông gòn do người Cao Miên đã trồng chung quanh đồn đất xưa của họ, mà dấu vết nay vẫn còn ở chùa Cây Mai và các vùng lân cận…. Theo ý tôi, hình như tên đó là của người Cao Miên đặt cho xứ này, rồi sau đem làm tên gọi thành phố. Tôi chưa tìm ra được nguồn gốc đích thực của tên đó.”

(Trương Vĩnh Ký, Souvenirs historiques sur Saigon et ses environs, trong Excursions et Reconnaissance X. Saigon, Imprimerie Coloniale 1885)

Tương tự có nhiều thuyết cho rằng ” Sài Gòn ” từ chữ ” Prey Kor ” ( Rừng Gòn ) hay ” Kai Gon ” ( Cây Gòn ) mà ra. Nói chung, những thuyết này đều dựa trên một đặc thù chính : cây bông gòn .Nhưng thuyết này hầu hết đã bị bác bỏ vì nguyên do đơn thuần là không ai tìm được dấu tích của một thứ ” rừng gòn ” ở vùng Sài Gòn, hay sự đắc dụng của củi gòn ở miền Nam, kể cả Trương Vĩnh Ký. Ngay vào thời của Trương Vĩnh Ký ( 1885 ) tức khoảng chừng hơn 100 năm sau mà đã không còn dấu tích rõ ràng của thứ rừng này, mặc dầu lúc đó không có tăng trưởng gì lắm. Ngay cả khi Louis Malleret khảo nghiệm lại, hình như cũng không có dấu vết gì của một rừng gòn ở Sài Gòn .

Thêm nữa là cây gòn thời đó dùng làm hàng rào chứ không làm củi. Và theo Lê Trung Hoa trong Địa Danh thì “sài” chỉ xuất hiện trong các từ ghép Hán-Việt, như “sài Tân” chứ chưa bao giờ được dùng như một từ đơn, nên không thể nói “củi” được, là “sài” được, hay là “củi gòn” là “Sài Gòn” được.

Vậy, thuyết Sài Gòn là ” củi gòn ” đã bị bác bỏ bởi thực tiễn địa lý và ngữ học .

Dọc theo con đường Nam tiến của dân tộc Việt Nam có nhiều bến bên các dòng sông: Bến Vân đồn, Bến Thủy, Bến Hải, Bến Quan, Bến Ván, Bến Thóc, Bến Đình, Bến Tranh, Bến Tre, Bến Súc, Bến Tắm Ngựa, Bến Thành, Bến Thành… Một số địa danh bị biến đổi như Bến Ván đã được đổi ra Bản Tân, Bến Thóc đã đổi ra Mễ Tân. Rất có thể địa danh Bến Củi đã được đổi ra Sài Tân hoặc Sài Ngạn (do người Quảng Đông sống ở khu vực này gọi bến (bờ) bằng chữ Ngạn, củi gỗ là Sài. “Sài Ngạn” (được phát âm như là “Xây-cóon” hay “Xi-cóon”) có lẽ do phát âm trại thành “Sài Gòn”.

Tuy nhiên giả thuyết này bị phát bỏ vì mơ hồ và thiếu thuyết phục, vì tên gọi Sài Gòn được ghi chép từ ngay trước khi người Hoa bỏ Cù Lao Phố về Sài Gòn .
Dựa theo lịch sử dân tộc và phát âm có thuyết cho là ” Sài Gòn ” là được phiên âm từ ” Prei Nokor ” hay từ ” Thầy Ngồn ” mà ra. Prei Nokor nguyên là dinh của phó vương Chân Lạp thuộc vùng Chợ Lớn tới chùa Cây Mai, là dấu vết của một ” thành phố ” có từ thời Tiền Angkor ( theo nhà sử học Pháp Louis Malleret ). Tuy nhiên không có tài liệu nào chứng minh và khẳng định rằng nơi đây từng sống sót khu dân cư trước thế kỷ 16 .

Ông Petrus Trương Vĩnh Ký là người đưa ra thuyết này. Trong tiểu giáo trình Địa lý Nam Kỳ, ông đã công bố một danh sách đối chiếu 187 địa danh Việt Miên ở Nam Kỳ, như Cần Giờ là Kanco, Gò Vấp là Kompăp, Cần Giuộc là Kantuọc và Sài Gòn là Prei Nokor.

Hai ông Nguyễn Đình Đầu và Lê Trung Hoa đều chấp thuận đồng ý với thuyết này, dựa theo lịch sử dân tộc và ngữ âm .Theo sử Cao Miên được dịch lại bởi Louis Malleret, vào năm 1623, một sứ thần của chúa Nguyễn đem quốc thư tới vua Cao Miên và ngỏ ý muốn mượn xứ Prei Nokor và Kras Krabei của Cao Miên để đặt phòng thu thuế. Tới năm 1674, Cao Miên có biến, chúa Nguyễn sai Nguyễn Dương Lâm đánh và phá luỹ Sài Gòn. Vậy, từ 1623 tới 1674, vùng Prei Nokor, hay Sài Gòn, đã tăng trưởng lắm .Đó là theo sử sách, còn theo lời nói thì Prei Nokor ( hay Brai Nagara theo tiếng Phạn mà người Miên mượn ), có nghĩa là ” thị xã ở trong rừng “, ” Prei ” hay ” Brai ” là ” rừng “, ” Nokor ” hay ” Nagara ” là ” thị xã “. Đây là vùng mà chúa Nguyễn đã mượn làm nơi thu thuế .Theo tiến trình của ngôn từ, Prei hay Brai biến thành Rai, thành ” Sài “, Nokor bị bỏ ” no ” thành ” kor “, và từ ” kor ” thành ” gòn ” .

Những tên gọi khác dùng để chỉ vùng đất Sài Gòn[sửa|sửa mã nguồn]

Trước đó Sài Gòn có nhiều tên khác nữa, đầu tiên là Thù Nại [1] bao gồm hầu hết vùng phía Đông Nam Bộ ngày nay (rộng khoảng 20,000-25,000 km²). Đến năm 1698, Sài Gòn có tên là Huyện Tân Bình, lúc này chỉ khoảng 5,000 km² và có đường biên giới phía Tây là sông Sài Gòn [1].

Lịch sử hành chính[sửa|sửa mã nguồn]

Đường phố Sài Gòn năm 1915

Thời cổ đại[sửa|sửa mã nguồn]

Vào thời kỳ cổ đại, khu vực nay là Thành phố Hồ Chí Minh thuộc vương quốc cổ Phù Nam. Đầu thế kỷ 17 trên một khu vực to lớn, dân cư thưa thớt, nằm trong khu vực tranh chấp ảnh hưởng tác động giữa Chân Lạp và Chiêm Thành chỉ ghi nhận 2 ngôi làng nhỏ của người Chân Lạp. Một tên Prei Nokor ( Sài Gòn ), một mang tên Kas Krobei ( Bến Nghé ) .

Thời chúa Nguyễn và nhà Nguyễn[sửa|sửa mã nguồn]

Năm 1623, Chúa Nguyễn sai một phái bộ tới nhu yếu vua Chey Chettha II cho lập đồn thu thuế tại Prei Nokor ( Sài Gòn ) và Kas Krobei ( Bến Nghé ). Đây là vùng rừng rậm hoang vắng nhưng cũng là khu vực qua lại và nghỉ ngơi của thương nhân Nước Ta đi Cao Miên và Xiêm La. Cùng khi đó, người Việt mở màn tập trung chuyên sâu sinh sống tại xung quanh hai đồn này. Chẳng bao lâu, hai đồn thu thuế trở thành TT của khu thị tứ trên bến dưới thuyền, công nghiệp và thương nghiệp sầm uất .Vào khoảng chừng năm 1658, Chân Lạp đứng trên bờ vực khủng hoảng cục bộ đã cầu viện chúa Nguyễn nhằm chống lại người Thái. Năm 1679, chúa Nguyễn được cho phép một nhóm người Hoa tị nạn triều Mãn Thanh, gồm hơn 3.000 người đến cư trú ở Biên Hòa ( Đồng Nai ) và Mỹ Tho [ 2 ] .Năm 1698, chúa Nguyễn cử Lễ Thành Hầu Nguyễn Hữu Cảnh vào Nam, thiết lập chính quyền sở tại, những đơn vị chức năng hành chính, chia đặt tỉnh lỵ v.v., chính thức xác lập chủ quyền lãnh thổ của Đại Việt trên vùng đất mới. Nguyễn Hữu Cảnh lấy xứ Đồng Nai làm huyện Phước Long và xứ Sài Gòn làm huyện Tân Bình ( nghĩa là Quảng Bình mới ), đặt ra hai dinh Trấn Biên ( Biên Hoà ) và Phiên Trấn ( Gia Định ) [ 3 ], cho quan vào quản lý. Từ đó, xứ Sài Gòn trở thành huyện Tân Bình và huyện sở đặt ở làng Tân Khai, là trụ sở của dinh Phiên Trấn. Những xóm làng tiên phong của Sài Gòn là xóm Hòa Mỹ ( tức xóm Thủy Trại, gần đường Cường Để ), xóm Tân Khai ( đường mé sông khoảng chừng cầu Mống ), xóm Long Điền, xóm Than, xóm Bàu Sen ( cây Mai ), xóm Phú Giáo, xóm Lò Bún, xóm Cây Củi, xóm Rẫy Cải, xóm Ụ Ghe. Sài Gòn trở thành một thị xã đông đúc với hơn một vạn dân và là thủ phủ của dinh Phiên Trấn. Thanh Hà là xã tiên phong của người Hoa ở, vùng Đồng Nai và Minh Hương là xã tiên phong của người Hoa tại Tân Bình .

Năm 1790, chúa Nguyễn Phúc Ánh cho đắp thành Gia Định [4] ở làng Tân Khai, lập Gia Định Kinh, làm nơi đóng đô của Nguyễn Ánh chống quân Tây Sơn. Sau khi thống nhất đất nước, năm 1802, vua Gia Long cho lập kinh đô ở Huế, đổi Gia Định Kinh lại thành Gia Định Trấn. Đây là một đơn vị hành chính quản trị cả năm trấn Phiên An, Biên Hòa, Định Tường, Vĩnh Thanh và Hà Tiên. Do dễ gây ra sự nhầm lẫn về danh xưng Trấn, nên năm 1808, Gia Long cho thành lập Gia Định Thành, một cơ quan hành chính cấp cao, thay mặt hoàng đế quản trị 5 trấn. Tại Bắc Hà, Gia Long cũng cho thành lập một đơn vị hành chính tương đương là Bắc Thành.

Năm 1832, Minh Mạng giải tán Gia Định Thành, chia lại 5 trấn do Gia Định Thành quản trị lại thành 6 tỉnh, gọi chung là Nam Kỳ Lục tỉnh. Phiên An trấn trở thành tỉnh Phiên An .Sau cuộc khởi nghĩa của Lê Văn Khôi, thành Quy bị hủy hoại. Một thành mới nhỏ hơn gọi là thành Phụng được kiến thiết xây dựng. Thành này không chống nổi cuộc vây hãm của quân Pháp vài năm sau đó .

Thời Pháp xâm lăng Nam Kỳ[sửa|sửa mã nguồn]

Người Pháp đã thiết kế xây dựng ở Sài Gòn những khu công trình theo phong thái châu Âu để ship hàng việc khai thác thuộc địa, và họ gọi nó là ” Hòn ngọc Viễn Đông ” hay ” Paris của Phương Đông “

Sau khi chiếm được Sài Gòn vào năm 1859, người Pháp đã gấp rút quy hoạch xây dựng Sài Gòn thành một đô thị lớn nhiều chức năng (hành chính, quân sự, kinh tế, cảng, v.v.). Ngày 11 tháng 4 năm 1861, Phó Đô đốc Léonard Charner ra nghị định xác định địa giới thành phố Sài Gòn (tiếng Pháp: Ville de Saigon) lúc đó: phía đông là sông Sài Gòn, phía bắc là rạch Thị Nghè, phía nam là rạch Bến Nghé, phía tây từ chùa Cây Mai đến đồn Kỳ Hòa, diện tích 25 km². Theo đó, ngày 30 tháng 4 năm 1862, trung tá công binh Coffyn đã cho soạn dự án mở rộng thành phố Sài Gòn[5], và được thống đốc đầu tiên của Nam Kỳ, Chuẩn đô đốc Louis Bonard. Tuy nhiên, dự án này chỉ được triển khai một thời gian ngắn thì bị bỏ dở. Ngày 14 tháng 8 năm 1862, Bonard lại ký Quyết định số 145 về quy định tổ chức hành chính tỉnh Gia Định, theo đó tỉnh Gia Định (tiếng Pháp: Province de Gia-dinh) gồm 3 phủ (tiếng Pháp: département), mỗi phủ có ba huyện (tiếng Pháp: arrondissement), dưới huyện có tổng, dưới tổng có xã, thôn, lý, ấp. Về cơ bản vẫn giữ cách phân chia hành chính của triều Nguyễn. Địa bàn thành phố Sài Gòn theo quy hoạch của Coffyn nằm trải rộng trên cả hai huyện Bình Dương và Tân Long, đều cùng phủ Tân Bình.

Để điều chỉnh lại, ngày 3 tháng 10 năm 1865, quyền Thống đốc Nam Kỳ, chuẩn đô đốc Pierre Roze đã ký nghị định quy định lại diện tích của thành phố Sài Gòn chỉ còn 3 km2 (nằm gọn trong khu vực Quận 1 ngày nay), đồng thời cũng quy định thành phố Chợ Lớn (tiếng Pháp: Ville de Cholon) trong một nghị định khác, với diện tích 1 km2 (nằm gọn trong Quận 5 hiện nay). Giữa 2 thành phố là các thôn xã như Phú Thạnh, Thái Bình, Tân Hòa, Phước Hưng, Nhơn Giang, Tân Kiểng, An Bình, An Đông, Hòa Bình… vẫn thuộc 2 huyện Bình Dương và Tân Long như cũ.

Sau khi chiếm được thêm 3 tỉnh Tây Nam Kỳ, Phó Đô đốc de La Grandière xóa bỏ cách phân chia địa giới hành chính cũ của triều Nguyễn, hủy bỏ cấp tỉnh và phủ, chia toàn cõi Nam Kỳ thành 25 arrondissement, lúc này được gọi là địa hạt hay quận thay cho các huyện trước đây. Địa bàn của thành phố Sài Gòn và thành phố Chợ Lớn, cùng các xã thôn ở giữa đều thuộc địa hạt (hay Quận) Sài Gòn. Trước đó, de La Grandière cũng đã ban hành nghị định số 53 ngày 4 tháng 4 năm 1867, quy định về việc “Tổ chức một ủy ban thành phố Sài Gòn”[cần dẫn nguồn]. Sau đó, ngày 8 tháng 7 năm 1869, Chuẩn đô đốc Gustave Ohier đã ban hành nghị định số 131, đổi tên Ủy hội thành phố (tiếng Pháp: Commission municipale) thành Hội đồng thành phố (tiếng Pháp: Conseil municipal), do một viên Thị trưởng (Maire) đứng đầu Hội đồng và một số sửa đổi chi tiết về thành phần nhân sự của Hội đồng.

Sài Gòn thời Pháp thuộc với xe ngựa và những cột Morris đặc trưng Pháp

Năm 1876, Chuẩn đô đốc Victor Auguste Duperré, Tổng chỉ huy quân Pháp tại Nam Kỳ[6], ra nghị định phân chia toàn bộ Nam Kỳ thành 4 khu vực hành chính lớn, gọi là circonscription administrative, mỗi khu vực ấy lại gồm nhiều tiểu khu hay hạt tham biện (arrondissement administratif). Sài Gòn là một trong 4 khu vực hành chính lớn và gồm 5 hạt Sài Gòn (đến năm 1885 mới đổi thành hạt Gia Định), Tây Ninh, Thủ Dầu Một, Biên Hòa và Bà Rịa.

Ngày 8 tháng 1 năm 1877, Tổng thống Pháp Mac Mahon ra “Sắc lệnh về tổ chức cấp thành phố của Thành phố Sài Gòn” (nguyên văn: Dercet concernant l’organissation municipale de la Ville de Saigon), ban hành ngày 16 tháng 5 năm 1877. Theo đó, thành phố Sài Gòn được nâng cấp thành công xã (nguyên văn La Ville de Saigon est éigée en commune). Thời kỳ này, địa giới của thành phố Sài Gòn đã được mở rộng hơn: phía tây nam đến khu vực Cầu Ông Lãnh, phía đông bắc đến khu công viên Lê Văn Tám hiện nay.

Ngày 20 tháng 10 năm 1879, thống đốc dân sự đầu tiên của Nam Kỳ, Le Myre de Vilers đã ký nghị định “thành lập một Hội đồng thành phố Chợ Lớn” (nguyên văn: Institution d’un cóseil municipal à Cholon).

Bản đồ thành phố Sài Gòn năm 1882Ngày 17 tháng 12 năm 1894, một nghị định đã lan rộng ra địa giới thành phố Sài Gòn về phía Bắc đến khu vực Hòa Hưng ngày này. Diện tích thành phố được lan rộng ra hơn 4 km2, thuộc địa giới của Q. 1 và Q. 3 ngày này .

Năm 1899, Toàn quyền Joseph Athanase Paul Doume ra nghị định đổi tên gọi “hạt” thành “tỉnh” (province) và chia Nam Kỳ thành 3 miền, với 20 tỉnh và 3 thành phố Sài Gòn, Chợ Lớn, thành phố tự trị Cap Saint Jacques và Côn Đảo không thuộc tỉnh nào [7]. Thành phố Sài Gòn nằm giữa địa giới của tỉnh Gia Định, còn thành phố Chợ Lớn nằm giữa địa giới của tỉnh Chợ Lớn.

Đến năm 1910, hai thành phố Sài Gòn và Chợ Lớn đã được lan rộng ra thêm diện tích quy hoạnh, sáp nhập những xã thôn ở giữa thuộc 2 tỉnh Gia Định và Chợ Lớn, mở màn tiếp giáp nhau tại vị trí nay là đường Nguyễn Văn Cừ và Nguyễn Thiện Thuật. Sài Gòn cũng được lan rộng ra về phía Nam, gồm có cả địa phận Q. 4 và một phần Q. 7 thời nay .
Bản đồ du lịch Sài Gòn vào khoảng chừng năm 1920

Ngày 27 tháng 4 năm 1931, khu Sài Gòn-Chợ Lớn (tiếng Pháp: Région de Saigon – Cholon) được thành lập lại theo sắc lệnh của Tổng thống Pháp. Đứng đầu khu Sài Gòn-Chợ Lớn là một Khu trưởng, do Toàn quyền Đông Dương bổ nhiệm. Khu trưởng là Chủ tịch Hội đồng Quản trị khu Sài Gòn-Chợ Lớn, quản trị chung cả hai thành phố. Thành phố Chợ Lớn được mở rộng hơn sáp nhập thêm một số vùng của tỉnh Chợ Lớn, nhưng thành phố Sài Gòn thu hẹp, cắt trả khu vực từ kinh Bàu Đồn đến Kinh Tẻ (nay thuộc Quận 7) về cho quận Nhà Bè. Tổng diện tích của cả khu tăng lên 51 km2. Trong thời gian chuyển tiếp chức Thị trưởng của mỗi thành phố tạm thời vẫn giữ, nhưng nhiều quyền hạn của chức vụ này chuyển sang cho Khu trưởng. Đến năm 1934 bãi bỏ chức Thị trưởng của hai thành phố, nhưng còn duy trì hoạt động của hai Tòa Thị chính (còn gọi là Dinh Xã Tây) Sài Gòn và Chợ Lớn để xử lý công việc hành chính.

Ngày 19 tháng 12 năm 1941, những Tòa Thị chính của hai thành phố cũ : Sài Gòn và Chợ Lớn bị giải thể. Toàn Khu Sài Gòn – Chợ Lớn được chia thành 5 Q., gồm có :

  • Quận I (nay thuộc một phần quận 1)
  • Quận II (nay thuộc một phần quận 1)
  • Quận III
  • Quận IV (nay là địa bàn quận 5 và quận 8)
  • Quận V (nay là địa bàn thuộc quận 6)

Khi Nước Ta độc lập ( 1945 ), nơi đây được gọi là thành phố Sài Gòn-Chợ Lớn. Vào ngày 23 tháng 9 năm 1945, ở đây xảy ra trận Sài Gòn-Chợ Lớn giữa quân đội của Chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hòa với quân đội Pháp được tương hỗ bởi Anh-Ấn. Sau khi tái chiếm được Đông Dương, năm 1948 chính quyền sở tại Pháp tại Đông Dương đã chia thành phố thành 6 Q. hành chính, đến năm 1952, tăng thành 7. Quận VI được xây dựng từ một phần của Q. Nhà Bè thuộc tỉnh Gia Định ( nay là Q. 4 ). Từ năm 1946 đến năm 1955, Sài Gòn là Thành Phố Hà Nội Cộng hòa Tự trị Nam Kỳ và Quốc gia Nước Ta .
Sài Gòn vào tháng 1 năm 1968 với những chiếc xe hơi nổi bật của thời gian đóGiữa những năm 1954 và 1975, sau Hiệp định Genève, Sài Gòn được chính quyền sở tại Nước Ta Cộng hòa chọn làm Thành Phố Hà Nội .

Năm 1955, Thủ tướng Ngô Đình Diệm đã đổi tên Khu Sài Gòn-Chợ Lớn thành Đô thành Sài Gòn – Chợ Lớn. Sau khi trở thành Tổng thống, ngày 22 tháng 10 năm 1956, Ngô Đình Diệm ký sắc lệnh số 143-NV đổi “Đô thành Sài Gòn-Chợ Lớn” thành Đô thành Sài Gòn. Sau đó, lại ra sắc lệnh số 74-TTP ngày 23 tháng 3 năm 1959 ấn định quy chế quản trị Sài Gòn: Tổng thống trực tiếp bổ nhiệm Đô trưởng và các quận trưởng trong đô thành. Bốn ngày sau, lại có thêm nghị định số 110-NV chia lại các quận, theo đó Đô thành Sài Gòn được chia lại thành 8 quận, được đánh số từ 1 đến 8:

  • Quận 1: địa giới quận I cũ
  • Quận 2: địa giới quận II cũ
  • Quận 3: địa giới quận III cũ
  • Quận 4: địa giới thuộc quận VI cũ
  • Quận 5: phần địa giới thuộc quận IV cũ, phía bắc Kênh Tàu hủ[8]
  • Quận 6: một phần địa giới của quận V cũ
  • Quận 7: một phần địa giới của quận V cũ
  • Quận 8: phần địa giới thuộc quận IV cũ, phía nam Kênh Tàu hủ

Dưới Q. là phường, dưới phường là khóm .Tháng 12 năm 1966, Q. 1 sáp nhập thêm hai phường mới lập : An Khánh và Thủ Thiêm, từ xã An Khánh thuộc Q. Quận Thủ Đức, tỉnh Gia Định kế cận tách ra. Tháng 1 năm 1967, hai phường mới của Q. I lại tách ra, lập thành Quận 9 của Đô thành Sài Gòn có 2 phường .Tháng 7 năm 1969 xây dựng Quận 10, Quận 11 trên cơ sở tách một phần Quận 3, Quận 5 và Quận 6. Lúc này thành phố có diện tích quy hoạnh 67,53 km² với dân số khoảng chừng 2 triệu người, gốm 11 Q. và 60 phường .

Vào thập niên 1950-60, thời Tổng thống Ngô Đình Diệm, với viện trợ của Mỹ, Sài Gòn được đầu tư xây dựng hạ tầng, cùng với chiến dịch tuyên truyền “Hòn ngọc Viễn Đông” (The Pearl of the Far East)[9] hay “Paris Viễn Đông” (Paris de l’Extrême-Orient), kết quả là một hạ tầng cơ sở được xây dựng khá hoàn chỉnh. Tuy nhiên, do chiến cuộc leo thang từ giữa cuối thập niên 1960, chính quyền Sài gòn cùng người Mỹ đã cho xây dựng ồ ạt các công trình phục vụ chiến tranh.

Trung tâm thành phố có 1 số ít khu công trình, thành phố được kiến thiết xây dựng to đẹp và sang chảnh, tuy nhiên, những khu công trình này hầu hết do Pháp kiến thiết xây dựng từ thập niên 1940, những khu nhà mới rất ít được kiến thiết xây dựng kể từ sau năm 1950, trong khi đó dân cư nông thôn đổ về thành thị tìm việc và tránh chiến sự khiến Sài Gòn dần trở thành một khu ổ chuột khổng lồ [ 10 ]. Khảo sát cho thấy khoảng chừng 40 % dân số khu vực Sài Gòn khi đó ( tức khoảng chừng 1,2 triệu người ) phải sống tại khu ổ chuột với những điều kiện kèm theo về y tế, vệ sinh rất kém [ 11 ]Rồi sau đó là trào lưu ” thương phế binh cắm dùi ” của cựu chiến binh vương quốc vào đầu thập niên 1970, khiến cho kiến trúc Sài Gòn không còn như khởi đầu. Phong trào này khởi phát từ những cuộc biểu tình của thương bệnh binh đòi chính phủ nước nhà Sài Gòn cấp đất xây nhà cho họ như đã hứa, nó bùng phát tương đối khá mạnh. Với mục tiêu là “ cắm dùi ”, những nhóm biểu tình rào dây, đóng cọc chiếm những khoảng chừng đất khang trang ở hai bên lề đường, kể cả chỗ sát với hàng rào những biệt thự cao cấp. Thậm chí có những nơi vỉa hè thoáng đãng chỗ được tráng xi-măng, cũng bị những người trong nhóm chiếm cứ để chia nhau. ” Chiến dịch cắm dùi ” đã lan tràn rõ ràng nhất như tại khúc đường Hồng thập tự ( gần bệnh viện Từ Dũ ) tới khúc đường xe lửa gần rạp Cải lương Kim-chung ) ; Khúc đất trống dọc đường Lý Thái Tổ ; đường Nguyễn Tri Phương, Võ Tánh ( chợ-lớn ), quốc lộ Hùng vương … nhà nước Sài Gòn không dám giải tán họ vì sợ lực lượng quân nhân bất bình, coi như sự đã rồi. Các khu ven TT mở màn trở nên lộn xộn với nhiều khu ổ chuột, nhà tạm, chợ trời … tự phát mọc lên. [ 12 ]

Thống nhất, xây dựng mới và lan rộng ra địa giới[sửa|sửa mã nguồn]

Ngày 30 tháng 4 năm 1975, Quân Giải Phóng Miền Nam tiến công và Sài Gòn thất thủ. Chính quyền Nước Ta Cộng hòa bị giải thể và nhà nước Cách mạng lâm thời Cộng Hòa miền Nam Nước Ta – nằm dưới sự chỉ huy của Đảng Cộng sản Việt Nam – quản trị miền Nam. Ngày 10 tháng 5 năm 1975, Hội nghị Ban Thường vụ Thành ủy Sài Gòn – Gia Định xác lập Thành phố Sài Gòn – Gia Định là một cơ cấu tổ chức hành chính thống nhất, gồm có hàng loạt Đô thành Sài Gòn, hàng loạt tỉnh Gia Định, Q. Phú Hòa của tỉnh Tỉnh Bình Dương và Q. Củ Chi của tỉnh Hậu Nghĩa cũ. Toàn thành phố gồm có 25 Q., trong đó 18 Q. nội thành của thành phố và ven đô : 1, 2, 3, 4, 5, 6, 7, 8, 9 ( ven đô ), 10, 11, Phú Nhuận ( nguyên là xã Phú Nhuận, Q. Tân Bình cũ, được tách ra và tăng cấp thành Q. ), Bình Hoà ( nguyên là xã Bình Hòa, Q. Gò Vấp cũ ), Thạnh Mỹ Tây ( nguyên là xã Thạnh Mỹ Tây, Q. Gò Vấp cũ ), Hạnh Thông ( nguyên là xã Hạnh Thông, Q. Gò Vấp cũ ), Thông Tây Hội ( nguyên là hai xã Thông Tây Hội và An Nhơn, Q. Gò Vấp cũ ), Tân Sơn Nhì ( nguyên là ba xã Tân Sơn Nhì, Phú Thọ Hòa, Tân Phú, Q. Tân Bình cũ ), Tân Sơn Hòa ( nguyên là xã Tân Sơn Hòa, Q. Tân Bình cũ ) ; 7 Q. ngoài thành phố : Quận Thủ Đức, Nhà Bè, Bình Chánh, Tân Bình ( trừ Phú Nhuận, Tân Sơn Nhì, Phú Thọ Hòa, Tân Phú, Tân Sơn Hòa ), Gò Vấp ( trừ Bình Hòa, Thạnh Mỹ Tây, Hạnh Thông, Thông Tây Hội, An Nhơn ), Hóc Môn, Củ Chi ( gồm Q. Phú Hòa của tỉnh Tỉnh Bình Dương và Q. Củ Chi của tỉnh Hậu Nghĩa cũ ) .

Từ năm 1976[sửa|sửa mã nguồn]

Ngày 2 tháng 7 năm 1976, Quốc hội tiên phong của nước Nước Ta thống nhất đổi tên nước thành Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Nước Ta đồng thời đặt lại tên cho thành phố theo tên của quản trị tiên phong của nước, Hồ Chí Minh. Cho đến nay, tên cũ Sài Gòn vẫn được sử dụng rất phổ cập, đặc biệt quan trọng trong những ngữ cảnh không chính thức. Đối với dân cư có gốc ở Sài Gòn truyền kiếp, và đặc biệt quan trọng là hội đồng người Việt hải ngoại, cái tên Sài Gòn vẫn là cái tên mà họ yêu thích và dùng hàng ngày. Để kỷ niệm cái tên Sài Gòn và nhắc nhủ hội đồng người Việt về quê nhà của họ, nhiều nơi có người Việt hải ngoại sinh sống, đường phố, cơ sở kinh doanh thương mại, và khu chợ được đặt tên là khu Sài-gòn thu nhỏ ( Saigon, Little-Saigon, New Saigon ) .Địa bàn thành phố về cơ bản giống như nghị quyết ngày 10 tháng 5 năm 1975 của Thành ủy Sài Gòn – Gia Định và có 1 số ít kiểm soát và điều chỉnh. Các Q. ngoài thành phố Quận Thủ Đức, Nhà Bè, Bình Chánh, Hóc Môn, Củ Chi đổi thành những huyện. Sáp nhập một phần nhỏ thuộc tỉnh Long An vào Huyện Nhà Bè và Huyện Bình Chánh. Quận Tân Bình cũ giải thể, nhập vào huyện Bình Chánh. Quận Gò Vấp cũ giải thể, nhập vào huyện Hóc Môn. Hai Q. Hạnh Thông và Thông Tây Hội hợp lại thành Q. Gò Vấp, hai Q. Tân Sơn Nhì và Tân Sơn Hòa hợp lại thành Q. Tân Bình, hai Q. Bình Hòa và Thạnh Mỹ Tây hợp lại thành Q. Quận Bình Thạnh, Q. Phú Nhuận giữ nguyên. Quận 9 giải thể, trả 2 phường ( đổi thành 2 xã ) về huyện Quận Thủ Đức, Quận 1 và Quận 2 nhập thành Quận 1 mới, Quận 8 và Quận 7 nhập thành Quận 8 mới từ tháng 5 – tháng 6 năm 1976. Diện tích 12 Q. nội thành của thành phố là 142,7 km2 chia ra 267 phường. Khu vực ngoài thành phố ven đô có 5 huyện diện tích quy hoạnh tự nhiên 1.152,8 km2 chia ra 77 xã .Ngày 29 tháng 12 năm 1978, thành phố sáp nhập thêm huyện Duyên Hải của tỉnh Đồng Nai [ 13 ]. Ngày 18 tháng 12 năm 1991, huyện đổi lại tên cũ thành Cần Giờ .Ngày 6 tháng 1 năm 1997, nhà nước phát hành Nghị quyết số 03 – CP [ 14 ]. Theo đó :

  • Giải thể huyện Thủ Đức để thành lập ba quận là quận Thủ Đức, Quận 2 và Quận 9
  • Thành lập Quận 7 trên cơ sở tách một phần diện tích và dân số của huyện Nhà Bè (các xã Tân Quy Đông, Tân Quy Tây, Tân Thuận Đông, Tân Thuận Tây, Phú Mỹ và một phần thị trấn Nhà Bè)
  • Thành lập Quận 12 trên cơ sở tách một phần diện tích và dân số của huyện Hóc Môn (các xã Thạnh Lộc, An Phú Đông, Tân Thới Hiệp, Đông Hưng Thuận, Tân Thới Nhất, một phần các xã Tân Chánh Hiệp và Trung Mỹ Tây)

Ngày 5 tháng 11 năm 2003, Chính phủ ban hành Nghị định 130/2003/NĐ-CP[15]. Theo đó, thành lập quận Tân Phú trên cơ sở tách một phần diện tích và dân số của quận Tân Bình (các phường 16, 17, 18, 19, 20 và một phần các phường 14, 15), thành lập quận Bình Tân trên cơ sở tách một phần diện tích và dân số của huyện Bình Chánh (các xã Bình Hưng Hòa, Bình Trị Đông, Tân Tạo và thị trấn An Lạc).

Ngày 9 tháng 12 năm 2020, Ủy ban thường vụ Quốc hội phát hành Nghị quyết 1111 / NQ-UBTVQH14 về việc sắp xếp những đơn vị chức năng hành chính cấp huyện, cấp xã và xây dựng thành phố Quận Thủ Đức thuộc Thành phố Hồ Chí Minh [ 16 ]. Theo đó, xây dựng thành phố Quận Thủ Đức trên cơ sở sáp nhập hàng loạt diện tích quy hoạnh và dân số của Quận 2, Quận 9 và Q. Quận Thủ Đức .Sau đợt sắp xếp này, toàn thành phố có 16 Q., 1 thành phố và 5 huyện với 249 phường, 58 xã và 5 thị xã .

  • Vào tháng 05/1975 dân số thành phố Sài Gòn – Gia Định (đến tháng 07/1976 đổi tên thành Thành phố Hồ Chí Minh) là 3.498.120 người (thống kê của chính quyền thành phố).
  • Dân số Thành phố Hồ Chí Minh theo các kết quả điều tra dân số chính thức như sau:
    • Ngày 1/10/1979 (Điều tra toàn quốc): 3.419.977 người.[17]
    • Ngày 1/4/1989 (Điều tra toàn quốc): 3.988.124 người.
    • Ngày 1/4/1999 (Điều tra toàn quốc): 5.037.155 người.
    • Ngày 1/10/2004 (Điều tra thành phố): 6.117.251 người.
    • Ngày 1/4/2009 (Điều tra toàn quốc): 7.162.864 người.
  • Theo số liệu điều tra của Tổng cục Thống kê ngày 1/4/2010, dân số thành phố là 7.382.287 người.[18]
  • Theo số liệu của Cục Thống kê Thành phố Hồ Chí Minh, dân số thành phố vào giữa năm 2010 là 7.396.446 người, mật độ 3.531 người/km2[19]
  • Theo số liệu điều tra của Tổng cục Thống kê ngày 1/4/2011, dân số thành phố là 7.549.341 người[20].
  • Theo số liệu của Cục Thống kê Thành phố Hồ Chí Minh, dân số thành phố vào giữa năm 2011 là 7.521.138 người, mật độ 3.590 người/km2[21].
  • Theo kết quả điều tra dân số ngày 01/04/2009 Thành phố Hồ Chí Minh có dân số 7.162.864 người, gồm 1.824.822 hộ dân trong đó: 1.509.930 hộ tại thành thị và 314.892 hộ tại nông thôn, bình quân 3,93 người/hộ. Phân theo giới tính: Nam có 3.435.734 người chiếm 47,97%, nữ có 3.727.130 người chiếm 52,03%. Những năm gần đây dân số thành phố tăng nhanh; trong 10 năm từ 1999-2009 dân số thành phố tăng thêm 2.125.709 người, bính quân tăng hơn 212.000 người/năm, tốc độ tăng 3,54%/năm, chiếm 22,32% số dân tăng thêm của cả nước trong vòng 10 năm. Với 572.132 người, tương đương với dân số một số tỉnh như: Quảng Trị, Ninh Thuận, quận Bình Tân có dân số lớn nhất trong số các quận cả nước. Tương tự, huyện Bình Chánh với 420.109 dân là huyện có dân số lớn nhất trong số các huyện cả nước. Trong khi đó huyện Cần Giờ với 68.846 người, có dân số thấp nhất trong số các quận, huyện của thành phố [22]. Không chỉ là thành phố đông dân nhất Việt Nam, quy mô dân số của Thành phố Hồ Chí Minh còn hơn phần lớn các thủ đô ở châu Âu ngoại trừ Moscow và London. Theo số liệu thống kê năm 2009, 83,32% dân cư sống trong khu vực thành thị. Thành phố Hồ Chí Minh có gần một phần ba là dân nhập cư từ các tỉnh khác.
  • Phân tích theo cơ cấu dân tộc: Người Việt (người Kinh) 6.699.124 người chiếm 93,52% dân số thành phố, tiếp theo tới người Hoa với 414.045 người chiếm 5,78%, còn lại là các dân tộc: Khmer 24.268 người, Chăm 7.819 người… Tổng cộng có đến 52/54 dân tộc được công nhận tại Việt Nam có người cư trú tại thành phố (chỉ thiếu dân tộc Bố Y và Cống), ít nhất là người La Hủ chỉ có 01 người. Ngoài ra còn 1.128 người được phân loại là người nước ngoài, có nguồn gốc từ các quốc gia khác (India, Pakistan, Indonesia, France…). Cộng đồng người Hoa ở Thành phố Hồ Chí Minh là cộng đồng người Hoa lớn nhất Việt Nam (bằng 50,3% tổng số người Hoa cả nước), cư trú khắp các quận, huyện, nhưng tập trung nhiều nhất tại Quận 5, 6, 8, 10, 11 và có những đóng góp đáng kể cho nền kinh tế thành phố[23].
  • Phân tích dân số theo tôn giáo: Căn cứ theo số liệu điều tra dân số năm 2009, 1.983.048 người (27,68% tổng số dân thành phố) kê khai có tôn giáo. Trong đó những tôn giáo có nhiều tín đồ là: Phật giáo 1.164.930 người chiếm 16,26%, Công giáo 745.283 người chiếm 10,4%, Cao đài 31.633 người chiếm 0,44%, Tin lành 27.016 người chiếm 0,37%, Hồi giáo 6.580 người chiếm 0,09%.

Sự phân bổ dân cư ở Thành phố Hồ Chí Minh không đồng đều. Trong khi 1 số ít Q. như : 3, 4, 10 và 11 có tỷ lệ lên tới trên 40.000 người / km², thì huyện ngoài thành phố Cần Giờ có tỷ lệ tương đối thấp 98 người / km² [ 24 ]. Về mức độ ngày càng tăng dân số, trong khi tỷ suất tăng tự nhiên khoảng chừng 1,07 % thì tỷ suất tăng cơ học lên tới 2,5 % [ 25 ]. Những năm gần đây dân số những Q. TT có khuynh hướng giảm ; trong khi dân số những Q. mới lập vùng ven tăng nhanh, do đảm nhiệm dân từ TT chuyển ra và người nhập cư từ những tỉnh đến sinh sống. Theo ước tính năm 2005, trung bình mỗi ngày có khoảng chừng 1 triệu khách vãng lai tại Thành phố Hồ Chí Minh. Đến năm 2010, số lượng này còn hoàn toàn có thể tăng lên tới 2 triệu [ 26 ] [ 27 ] .

Một số sự kiện lịch sử dân tộc của Thành phố Hồ Chí Minh[sửa|sửa mã nguồn]

  • Ngày 17 tháng 2 năm 1859, quân Pháp mở cuộc tấn công thành Sài Gòn (tức thành Gia Định) và một ngày sau thì chiếm được thành. Án sát Lê Tứ, Hộ đốc Vũ Duy Ninh tự vẫn, Đề đốc Trần Trí, Bố chính Vũ Thực và Lãnh binh Tôn Thất Năng đem quân rút về Tây Thái, huyện Bình Long.
  • Ngày 8 tháng 3 năm 1859, quân Pháp đốt cháy kho tàng, phá hủy thành Sài Gòn và rút ra để tránh quân triều đình nhà Nguyễn tấn công đánh chiếm lại thành. Tháng 12 cùng năm quân Pháp mở rộng sự chiếm đóng ra khu vực Chợ Lớn.
  • Tháng 8 năm 1859, Nguyễn Tri Phương được cử giữ chức Tổng thống quân vụ, vào chỉ huy quân thứ Gia Định chống Pháp. Tháng 12 cùng năm, theo đề nghị của ông, Phạm Thế Hiển được cử làm Tham tán quân thứ Gia Định.
  • Ngày 25 tháng 2 năm 1861, Đại đồn Chí Hòa thất thủ, Nguyễn Tri Phương bị trọng thương.
  • Ngày 13 tháng 1 năm 1863, Pháp khánh thành Sở Bưu điện Sài Gòn.
  • Ngày 1 tháng 1 năm 1864, tờ Le Courrier de Sài Gòn (Tin Sài Gòn) ra số đầu tiên[28].
  • Từ ngày 23 tháng 2 năm 1868 đến 25 tháng 9 năm 1869, xây dựng Tòa Soái phủ Nam Kỳ (sau là Phủ Thống đốc, rồi Phủ Toàn quyền Đông Dương, thường được gọi là Dinh Gia Long).
  • Ngày 1 tháng 7 năm 1882, tuyến đường xe điện đầu tiên ở Việt Nam dài 5 km, rộng 1 m, nối Sài Gòn và Chợ Lớn bắt đầu hoạt động.
  • Năm 1882, thành lập Thư viện Sài Gòn.
  • 1901: Tờ báo chữ Việt Nông cổ mín đàm ra đời.
  • 1902: Xây cầu Bình Lợi trên sông Sài Gòn.
  • 1903: Đường tàu điện nội hạt của Sài Gòn được xây dựng.
  • 1908: Dinh Xã Tây, nay là trụ sở Ủy ban Nhân dân thành phố (được khởi công xây dựng từ tháng 3 năm 1898), hoàn thành và được đưa vào sử dụng.
  • 1910: Chiếc máy bay xuất hiện đầu tiên trên bầu trời Việt Nam hạ cánh xuống Sài Gòn.
  • 1911: Nguyễn Tất Thành xuất dương dưới tên gọi là Văn Ba, lên chiếc tàu buôn Đô đốc Latouche Tréville với nghề phụ bếp. Sau này được biết đến ở Việt Nam với tên gọi Ngày Bác Hồ ra đi tìm đường cứu nước.
  • 1914: Xây dựng xong chợ Bến Thành.

Hình ảnh Sài Gòn cổ xưa[sửa|sửa mã nguồn]

Sài Gòn – Thành phố Hồ Chí Minh trong văn hóa truyền thống[sửa|sửa mã nguồn]

  • Trước 1975:
  • Sau 1975:
  • Vở nhạc kịch Miss Saigon
  • Ban nhạc rock “Saigon kick” (Cú đá Sài Gòn)
  • Ca sĩ nhạc rap Saigon
  • Một người Nga ở Sài Gòn của Duyên Anh
  • L’AmantL’amant de la Chine du Nord của Marguerite Duras
  • L’adieu à Saïgon của Jean Lartéguy
  • Les civilisés của Claude Farrère
  • Soleil au ventre, Mort en fraudeLes asiates của Jean Hougron
  • Jade của Michel Tauriac
  • La ligne de force của Pierre Herbart
  • Le roi lepreux của Pierre Benoit
  • The Quiet American của Graham Greene

Liên kết ngoài[sửa|sửa mã nguồn]