Rau má – Wikipedia tiếng Việt

Rau má hay tích tuyết thảo hoặc lôi công thảo (danh pháp hai phần: Centella asiatica) là một loài cây một năm thân thảo trong phân họ Mackinlayoideae của họ Hoa tán (Apiaceae), có nguồn gốc Australia, các đảo Thái Bình Dương, New Guinea, Melanesia, Malesia và châu Á. Nó được sử dụng như một loại rau cũng như trong y học Ayurveda và y học cổ truyền Trung Hoa. Tên khoa học đồng nghĩa là Hydrocotyle asiatica L., Trisanthus cochinchinensis Lour.

Thân cây rau má mảnh khảnh và nhẵn, là loại thân bò lan, màu xanh lục hay lục ánh đỏ, có rễ ở những mấu. Nó có những lá hình thận, màu xanh với cuống dài và phần đỉnh lá tròn, cấu trúc trơn nhẵn với những gân lá dạng lưới hình chân vịt. Các lá mọc ra từ cuống dài khoảng chừng 5 – 20 cm. Bộ rễ gồm có những thân rễ, mọc thẳng đứng. Chúng có màu trắng kem và được bao trùm bằng những lông tơ ở rễ. Gân lá hình cung .

Hoa và quả[sửa|sửa mã nguồn]

Hoa và lá rau má

Hoa rau má có màu trắng hoặc từ hồng nhạt đến phớt đỏ [2], mọc thành các tán nhỏ, tròn gần mặt đất. Mỗi hoa được bao phủ một phần trong 2 lá bắc màu xanh. Những bông hoa lưỡng tính này có kích thước khá nhỏ (nhỏ hơn 3 mm), với 5-6 thùy tràng hoa trên mỗi bông hoa. Hoa có 5 nhị và 2 vòi nhụy. Quả có hình mắt lưới dày dặc, đây là điểm phân biệt nó với các loài trong chi Hydrocotyle có quả với bề mặt trơn, sọc hay giống như mụn cơm. Quả của nó chín sau 3 tháng và toàn bộ cây, bao gồm cả rễ, được thu hái thủ công.

Theo Trung y, rau má có tính hàn ( lạnh ), tân ( cay ), khổ ( đắng ). Khi ăn ở dạng tươi như một loại rau, người ta cho rằng nó giúp cho việc duy trì sự tươi tắn. Nước sắc từ lá rau má được coi là có công dụng hạ huyết áp. Loại nước sắc này cũng được coi là một loại thuốc bổ dưỡng để có sức khỏe thể chất tốt ( tăng trí nhớ, thị lực ). Loại thuốc đắp từ lá cũng được dùng để điều trị những chỗ đau, hạ sốt. Nó còn được dùng trong điều trị những chứng phù ; viêm thanh quản, tĩnh mạch, phế quản ; những bệnh trĩ, phong, eczema hay vẩy nến ; giải ngộ độc sắn ( khoai mì ) và lợi tiểu [ 3 ] .Một vài báo cáo giải trình khoa học cho thấy năng lực của rau má trong việc tương hỗ làm lành vết thương. Khi điều trị bằng rau má, sự liền sẹo được kích thích bằng việc sản xuất ra những chất keo loại I. Việc điều trị này cũng cho thấy sự giảm sút đáng kể của những tác động ảnh hưởng viêm nhiễm và việc tạo ra những nguyên bào sợi [ 4 ] .

Các nhà thảo mộc học còn cho rằng nó có chứa nhân tố trường thọ gọi là ‘Vitamin X trẻ trung’ có tác dụng bổ dưỡng cho não và các tuyến nội tiết và xác nhận rằng nước chiết từ rau má giúp cải thiện các vấn đề về hệ tuần hoàn và da[5].

Tại Việt Nam, tinh rau má tươi đã được Viện Công nghiệp Thực phẩm sản xuất thành công.

Rau má được cho là đã làm nên sự trường thọ của một võ sư môn Thái cực quyền là Lý Thanh Vân ( 李清雲 ). Người ta nói rằng ông đã sống thọ tới 256 tuổi ( ? ), một phần là do sử dụng những loại thảo dược Trung Quốc truyền thống cuội nguồn, trong đó có rau má .Một câu truyện dân gian tại Sri Lanka kể lại rằng một vị vua nổi tiếng trong thế kỷ 10 với tên gọi Aruna đã cho rằng rau má phân phối cho ông sức khỏe thể chất và sức chịu đựng đủ để thỏa mãn nhu cầu 50 phi tần của mình .Ở Ấn Độ, rau má còn được gọi là Brahmi hàm nghĩa một loại dược thảo hoàn toàn có thể giúp con người tiến đến sự hoà hợp với tâm thức ngoài hành tinh ( knowledge of the Supreme Reality ). Rau má thường có trong khẩu phần ăn của những vị thiền sư, nhà yogi, nhà thông thái .

Ngày nay, tại nhiều quốc gia vẫn còn lưu truyền câu tục ngữ “Two leaves a day keep old age away” (Dùng 2 lá một ngày sẽ giúp bạn xa lánh tuổi già).

Liên kết ngoài[sửa|sửa mã nguồn]