Tiếng Việt – Wikipedia tiếng Việt

Tiếng Việt, cũng gọi là tiếng Việt Nam[8] hay Việt ngữ là ngôn ngữ của người Việt và là ngôn ngữ chính thức tại Việt Nam. Đây là tiếng mẹ đẻ của khoảng 85% dân cư Việt Nam cùng với hơn 4 triệu Việt kiều. Tiếng Việt còn là ngôn ngữ thứ hai của các dân tộc thiểu số tại Việt Nam và là ngôn ngữ dân tộc thiểu số được công nhận tại Cộng hòa Séc.

Dựa trên từ vựng cơ bản, tiếng Việt được phân loại là một ngôn từ thuộc ngữ hệ Nam Á. Tiếng Việt là ngôn từ có nhiều người nói nhất trong ngữ hệ này ( nhiều hơn tổng số người nói của toàn bộ những ngôn từ còn lại trong ngữ hệ ). Vì Nước Ta thuộc Vùng văn hoá Đông Á, tiếng Việt cũng chịu nhiều tác động ảnh hưởng về từ tiếng Hán, do vậy là ngôn từ có it điểm tương đồng nhất với những ngôn từ khác trong ngữ hệ Nam Á .

Lịch sử

Theo A. G. Haudricourt giải thích từ năm 1954, nhóm ngôn ngữ Việt-Mường ở thời kỳ khoảng đầu Công nguyên là những ngôn ngữ hay phương ngữ không thanh điệu. Về sau, qua quá trình giao thoa với Hoa ngữ và nhất là với các ngữ thuộc ngữ hệ Tai-Kadai vốn có hệ thống thanh điệu phát triển cao hơn, hệ thống thanh điệu trong tiếng Việt xuất hiện và có diện mạo như ngày nay, theo quy luật hình thành thanh điệu. Sự xuất hiện các thanh điệu, bắt đầu khoảng thế kỷ thứ VI (thời kỳ Bắc thuộc trong lịch sử Việt Nam) với 3 thanh điệu và phát triển thêm vào khoảng thế kỷ XII (nhà Lý) với 6 thanh điệu. Sau đó một số phụ âm đầu biến đổi cho tới ngày nay. Trong quá trình biến đổi, các phụ âm cuối rụng đi làm thay đổi các kết thúc âm tiết và phụ âm đầu chuyển từ lẫn lộn vô thanh với hữu thanh sang tách biệt.

Ví dụ [ 9 ] của A.G. Haudricourt .

Đầu Công nguyên
(vô thanh điệu)
Thế kỷ VI
(3 thanh)
Thế kỷ XII
(6 thanh)
Ngày nay
pa pa pa ba
sla, hla hla la la
ba ba
la la
pas, pah pả bả
slas, hlah hlà lả lả
bas, bah
las, lah
pax, paʔ
slax, hlaʔ hlá
bax, baʔ pạ bạ
lax, laʔ lạ lạ

Trước thời Pháp thuộc

Tiếng Việt là ngôn ngữ dùng trong sinh hoạt giao tiếp của dân thường từ khi lập nước. Giai đoạn từ đầu Công nguyên, tiếng Việt có những âm không có trong tiếng Trung. Từ khi tiếng Trung có ảnh hưởng tới Việt Nam thông qua các con đường và bao gồm các giai đoạn khác nhau, tiếng Việt bắt đầu có những âm vay mượn từ tiếng Trung. Các tác giả Mai Ngọc Chừ, Vũ Đức Nghiệu và Hoàng Trọng Phiến trong cuốn sách Cơ sở ngôn ngữ học và tiếng Việt chia quá trình tiếp xúc Hán – Việt thành 2 giai đoạn chính:

Từ Hán cổ và từ Hán Việt gọi chung là từ gốc Hán .1 số từ ngữ Hán cổ hoàn toàn có thể kể đến như ” đầu “, ” gan “, ” ghế “, ” ông “, ” bà “, ” cô “, ” chè “, ” ngà “, ” chén “, ” chém “, ” chìm “, ” buồng “, ” buồn “, ” buồm “, ” mùi “, ” mùa ” … Từ Hán cổ là những từ gốc Hán gia nhập vào tiếng Việt từ lâu hơn, đã đồng hoá mạnh hơn, nên những từ này lúc bấy giờ là từ thường thì trong hoạt động giải trí xã hội so với người Việt .

Hệ thống từ Hán Việt trong tiếng Việt bằng cách đọc các chữ Hán theo ngữ âm hiện có của tiếng Việt (tương tự như người Nhật Bản áp dụng kanji đối với chữ Hán và katakana với các tiếng nước ngoài khác). Hiện nay có 1945 chữ Hán thông dụng trong tiếng Nhật, cũng có khoảng 2000 từ Hán–Hàn thông dụng). Số lượng từ vựng tiếng Việt có thêm hàng loạt các yếu tố Hán–Việt. Như là “chủ”, “ở”, “tâm”, “minh”, “đức”, “thiên”, “tự do”,… giữ nguyên nghĩa chỉ khác cách đọc; hay thay đổi vị trí như “nhiệt náo” thành “náo nhiệt”, “thích phóng” thành “phóng thích”, “đảm bảo” thành “bảo đảm”…; hoặc rút gọn như “thừa trần” thành “trần” (trong trần nhà), “lạc hoa sinh” thành “lạc” (trong củ lạc, còn gọi là đậu phộng)…; hoặc đọc chệch đi như sáp nhập (chữ Hán: 插入) thành sát nhập, thống kế (統計) thành thống kê, để kháng (抵抗) thành đề kháng, chúng cư (眾居) thành chung cư, bảo cô (保辜) thành báo cô, vãng cảnh (往景) thành vãn cảnh (晚景), khuyến mãi (勸買) thành khuyến mại (勸賣), vân vân; hay đổi khác nghĩa hoàn toàn như “phương phi” trong tiếng Hán có nghĩa là “hoa cỏ thơm tho” thì trong tiếng Việt lại là “béo tốt”, “bồi hồi” trong tiếng Hán nghĩa là “đi đi lại lại” sang tiếng Việt thành “bồn chồn, xúc động”… Mặt khác, người Trung Quốc gọi là Thái Sơn, Hoàng Hà, cổ thụ… thì người Việt lại đọc là núi Thái Sơn, sông Hoàng Hà, cây cổ thụ (mặc dù sơn = núi, hà = sông, thụ = cây)… Do tính quy ước của ngôn ngữ mà phần nào đó các cách đọc sai khác với tiếng Hán vẫn có ai đó chấp nhận và sử dụng trong khi các nhà nghiên cứu ngôn ngữ tiếng Việt hiện nay cũng như các cơ quan, các cấp quản lý, tổ chức xã hội – nghề nghiệp lẫn các nhà khoa học Việt Nam có thể chưa tìm được tiếng nói chung trong việc chuẩn hoá cách sử dụng tên riêng và từ vựng mượn từ tiếng nước ngoài.[10] Bên cạnh đó, có những từ có thể đã dùng sai như “quan ngại” dùng và hiểu như “lo ngại”, “vấn nạn” hiểu là “vấn đề nan giải”, “vô hình trung” thì viết thành “vô hình trung” hay “vô hình dung”, “việt dã” là “chạy dài”; “trứ tác” dùng như “sáng tác”,[11] “phong thanh” dùng như “phong phanh”, “bàng quan” dùng như “bàng quang”, “đào ngũ” dùng là “đảo ngũ”, “tham quan” thành “thăm quan”, “xán lạn” thành “sáng lạng”…

Theo ước lượng của các nhà nghiên cứu, từ Hán Việt chiếm khoảng trên dưới 70% vốn từ trong phong cách chính luận, khoa học (Maspéro thì cho rằng, chúng chiếm hơn 60% lượng từ tiếng Việt).[10][11] Tác giả Lê Nguyễn Lưu trong cuốn sách Từ chữ Hán đến chữ Nôm thì cho rằng về lĩnh vực chuyên môn và khoa học tỉ lệ này có thể lên đến 80% nhưng khi nhận xét về văn ngữ trong một cuốn tiểu thuyết thì chỉ còn 12,8%, kịch nói rút xuống còn 8,9% và ngôn ngữ nói chuyện hằng ngày còn thấp hơn nữa.[12]

Các từ và từ tố Hán Việt tạo ra các từ ngữ mới cho tiếng Việt như sĩ diện, phi công, bao gồm, sống động, sinh đẻ, vân vân. Trong khi tiếng Việt gọi là phát thanh (發聲) thì tiếng Hán lại gọi là 廣播 quảng bá; tiếng Việt gọi là truyền hình (傳形) thì tiếng Hán gọi là 電視 điện thị; tiếng Việt gọi là thành phố (城鋪), thị xã (市社) thì tiếng Hán gọi là 市 thị. Tiếng Việt đã lợi dụng được những thành tựu ngôn ngữ trong tiếng Hán để tự cải tiến mình.

Kể từ đầu thế kỷ thứ XI, Nho học phát triển, việc học cổ văn gia tăng, tầng lớp trí thức mở rộng tạo tiền đề cho một nền văn chương của người Việt bằng cổ văn phát triển với các áng văn thư ví dụ như Nam quốc sơn hà bên sông Như Nguyệt (sông Cầu).

Cùng thời gian này, ai đó xây riêng 1 hệ thống chữ viết cho người Việt theo nguyên tắc ghi âm tiết phát triển, đó là chữ Nôm. Để tiện cho việc học chữ Hán và chữ Nôm của người Việt, Ngô Thì Nhậm (1746–1803) đã biên soạn cuốn sách Tam thiên tự giải âm (còn gọi là Tam thiên tự, Tự học toản yếu). Tam thiên tự giải âm chỉ lược dạy 3000 chữ Hán, Nôm thông thường, đáp ứng nhu cầu cần thiết, nhớ chữ, nhớ nghĩa từng chữ, mỗi câu 4 chữ. Hiệp vần cũng có điểm đặc biệt, tức là vần lưng (yêu vận, vần giữa câu). Tiếng thứ 4 câu đầu hiệp với tiếng thứ hai câu dưới rồi cứ thế mãi đến 3000 chữ, 750 câu. Ví dụ: Thiên – trời, địa – đất, cử – cất, tồn – còn, tử – con, tôn – cháu, lục – sáu, tam – ba, gia – nhà, quốc – nước, tiền – trước, hậu – sau, ngưu – trâu, mã – ngựa, cự – cựa, nha – răng, vô – chăng, hữu – có, khuyển – chó, dương – dê,… Trần Văn Giáp đánh giá đây tuy chỉ là quyển sách dạy học vỡ lòng về chữ Hán như đã nêu ở trên nhưng thực ra cũng có thể coi nó chính là sách Từ điển Hán Việt thông thường và phổ biến ở cuối thế kỷ XVIII, cùng thời với các sách Chỉ nam ngọc âm, Chỉ nam bị loại và xuất hiện trước các sách Nhật dụng thường đàm, Thiên tự vănĐại Nam quốc ngữ.[13]

Thời Pháp thuộc

Từ khi Pháp xâm lược Nước Ta vào nửa cuối thế kỷ thứ XIX, tiếng Pháp dần thay thế sửa chữa vị trí của cổ văn, trở thành ngôn từ chính thức trong giáo dục, hành chính và ngoại giao. Chữ Quốc ngữ ( chữ Latinh tiếng Việt ), do 1 số ít nhà truyền giáo châu Âu tạo ra, đặc biệt quan trọng là hai tu sĩ người Bồ Đào Nha Gaspar do Amaral và Antonio Barbosa, với mục tiêu bắt đầu là dùng ký tự Latinh ghi lại tiếng Việt, được chính quyền sở tại Pháp thuộc bảo lãnh sử dụng nhằm mục đích thay thế sửa chữa chữ Hán với chữ Nôm để đồng văn tự với tiếng Pháp, từ từ sử dụng phổ cập trong xã hội cùng tiếng Pháp .

Gia Định báo là tờ báo đầu tiên mà phát hành bằng chữ Quốc ngữ tại Nam Kỳ vào năm 1865, đặt nền móng cho sự phát triển và xu hướng của chữ Quốc ngữ như là chữ viết chính của tiếng Việt sau này.

Mặt khác, những khái niệm chính trị xã hội, kỹ thuật mới dẫn đến việc nhập những thuật ngữ, từ ngữ mới. Có 2 khuynh hướng về phương pháp nhập thuật ngữ là :

Sau năm 1945

Tiếng Việt sửa chữa thay thế trọn vẹn tiếng Pháp và cổ văn, trở thành ngôn từ thao tác cấp vương quốc duy nhất của Việt Nam Dân chủ Cộng hoà .Trong thời kỳ cuộc chiến tranh Nước Ta, sự tăng trưởng tiếng Việt trong chính thể Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ở miền Bắc và Nước Ta Cộng hòa ở miền Nam diễn ra có khác nhau, đa phần ở sử dụng từ Hán-Việt và phiên âm tên trong tiếng quốc tế .Tại miền Bắc có xu thế chuyển sang sử dụng từ thuần Việt thay thế sửa chữa từ Hán Việt cùng nghĩa còn ở miền Nam thì vẫn giữ nguyên việc sử dụng từ Hán Việt như thời trước 1945. Ví dụ như miền Nam vẫn giữ tên ” Ngân hàng Quốc gia ” trong khi miền Bắc đổi thành ” Ngân hàng Nhà nước ” ( 1960 ), miền Nam gọi là ” phi trường ” thì miền Bắc gọi là ” trường bay “, miền Nam gọi là ” Ngũ Giác Đài ” thì miền Bắc gọi là ” Lầu Năm Góc “, miền Nam gọi là ” Đệ nhứt thế chiến ” thì miền Bắc gọi là ” Chiến tranh quốc tế thứ nhất “, miền Nam gọi là ” hỏa tiễn ” thì miền Bắc gọi là ” tên lửa “, miền Nam gọi là ” thủy quân lục chiến ” còn miền Bắc đổi thành ” lính thủy đánh bộ “, … trái lại ở miền Bắc lại dùng một số ít danh từ bắt nguồn từ tiếng Hán như ” du lịch thăm quan “, ” sự cố “, ” nhất trí “, ” ĐK “, ” đột xuất “, ” vô tư “, … thì miền Nam lại dùng những chữ ” thăm viếng “, ” trở ngại / trục trặc “, ” đồng lòng “, ” ghi tên “, ” giật mình “, ” tự do “, …

Việc phiên âm tên tiếng nước ngoài thì ở miền Nam vẫn theo cách trước 1945 là dùng tên theo từ Hán Việt, như Băng đảo (Iceland), Úc Đại Lợi (Australia), Hung Gia Lợi (Hungary), Ba Tây (Brazil),… Tại miền Bắc thì chuyển sang phiên âm trực tiếp thành Ai-xơ-len, Ô-xtrây-li-a, Hung-ga-ri,… và trừ ra các tên Hán Việt của một số đối tượng phổ biến, ví dụ như “Pháp”, “Đức”, “Anh”, “Nga”,… Cá biệt (có thể là duy nhất) 1 tên tiếng Trung là Zhuang (người Tráng) “phiên âm trực tiếp” thành Choang trong tên gọi chính thức “Khu tự trị dân tộc Choang Quảng Tây”.[15][note 1]

Sau khi Việt Nam thống nhất vào năm 1975, quan hệ Bắc-Nam đã kết nối lại. Gần đây, sự phổ biến hơn của các phương tiện truyền thanh và truyền hình trên toàn quốc góp phần chuẩn hóa tiếng Việt về chính tả và âm điệu. Từ Hán Việt và từ thuần Việt được người Việt sử dụng song song tùy thuộc ngữ cảnh hay văn phong. Sự di cư để học tập và làm việc giữa các vùng miền giúp mọi người ở Việt Nam được tiếp xúc và hiểu nhiều hơn với các phương ngữ tiếng Việt. Tuy nhiên với sự tiến triển của internet và toàn cầu hóa, ảnh hưởng của tiếng Anh ngày càng lớn, người Việt hiện nay thường viết từ ngoại lai với xu hướng viết theo tiếng Anh (như video) thay vì viết theo âm đọc của tiếng Việt (vi-đê-ô) vì cùng dùng chữ Latinh, và đang có thói quen dùng từ vựng hay tên dịch sang tiếng Anh nhiều hơn, có khi lấn át các từ vựng hay tên tiếng Việt sẵn có hoặc đã dịch có nghĩa (ví dụ như manga Kimetsu no Yaiba đã được phát hành dưới tên tiếng Việt là “Thanh gươm diệt quỷ” nhưng báo chí Việt lại dùng tên tiếng Anh “Demon Slayer” khi viết bài[16]). Những người làm việc ở mảng báo chí và phương tiện truyền thông đôi khi đưa tên riêng nước ngoài đưa vào tiếng Việt lại thiếu tìm hiểu và chọn lọc (phát âm sai dựa theo âm tiếng Anh thay vì từ âm của ngôn ngữ gốc, dịch trung gian tên riêng qua tiếng Anh hoặc tiếng Trung), khiến mọi người theo dõi cũng dùng sai theo, trải qua một thời gian dài thì “sai nhiều thành quen” nên rất khó sửa lại đúng tương ứng với ngôn ngữ gốc được. Ví dụ: truyền thông Việt Nam hay dùng nguồn tin tiếng Anh thay vì tiếng Nhật, làm cho tên người Nhật Bản vốn theo thứ tự “họ trước tên sau” trong tiếng Nhật lại bị viết đảo ngược thành “tên trước họ sau” vào trong tiếng Việt (mặc dù không có luật bắt buộc đảo ngược họ tên), khiến thủ tướng Suga Yoshihide bị viết và gọi ngược thành “Yoshihide Suga”[17]; diễn viên Dilraba Dilmurat hay bị gọi là “Địch Lệ Nhiệt Ba” dù cô là người Uyghur, tên của cô là chuẩn tiếng Uyghur không thuộc vùng văn hóa Đông Á (nghĩa là vốn không thể viết bằng chữ Hán), nhưng truyền thông Việt lại dùng tên theo âm Hán-Việt của chữ Hán qua âm Quan thoại mà người Trung Quốc phiên âm tên cô; huấn luyện viên Park Hang-seo khi mới được bổ nhiệm huấn luyện tuyển Việt Nam, hay bị truyền thông Việt đọc tên là “Pác Hang Xeo”[18][19], phải có bài đính chính và mất một thời gian thì cách đọc mới được sửa lại thành “Pắc Hang-so” hay “Pắc Hang-sơ” cho đúng âm tiếng Hàn[19].

Phân bố

Mức độ phổ biến của tiếng Việt trên khắp lãnh thổ Việt Nam. Phân bố độ phổ cập của tiếng Việt trên chủ quyền lãnh thổ Nước Ta. Trong đó những khu vực màu vàng nhạt là những khu vực sử dụng tiếng dân tộc bản địa địa phương trong đời sống là nhiều hơn so với tiếng Việt .Theo Ethnologue, tiếng Việt có tại Anh, Ba Lan, Campuchia, Côte d’Ivoire, Đức, Hà Lan, Lào, Na Uy, Nouvelle-Calédonie, Phần Lan, Pháp, Philippines, Cộng hòa Séc, Sénégal, Thailand, Vanuatu, Đài Loan, Nga … Riêng Trung Quốc có người Kinh địa phương ở Đông Hưng, tiếng Việt của họ có trộn lẫn âm giọng của những ngôn từ Hán ( Quan thoại, tiếng Quảng Đông, … ) .Tiếng Việt là ngôn từ dân tộc thiểu số tại Cộng hòa Séc vì người Việt được công nhận là ” dân tộc thiểu số ” tại Séc. [ 20 ]

Phương ngữ

Tiếng Việt có sự thay đổi trong giọng nói từ Bắc vào Nam, không đột ngột mà tiệm tiến dần theo từng vùng liền nhau. Trong đó, giọng Bắc (Nam Định – Thái Bình),[note 2] giọng Trung Huế và giọng Nam Sài Gòn là 3 phân loại chính. Những tiếng địa phương này khác nhau ở giọng điệu và từ địa phương. Thanh ngã và thanh hỏi ở miền Bắc rõ hơn ở miền Nam và Trung. Miền Bắc phát âm một số phụ âm (tr, ch, n, l…) khác với miền Nam và miền Trung. Giọng Huế có nhiều từ vựng địa phương hơn những giọng khác. Từ điển Việt-Bồ-La (1651) của Alexandre de Rhodes lấy tiếng miền Bắc làm nền tảng, Dictionarium Anamitico Latinum (1772-1773) của Pierre Pigneaux de Béhaine lấy tiếng miền Nam làm nền tảng.[21] Theo trang thông tin của Đại sứ quán Việt Nam tại Trung Quốc[22] và học giả Laurence Thompson[23] thì cách đọc tiêu chuẩn hiện nay dựa vào giọng Hà Nội. Tuy nhiên, chưa có quy định nào nói rằng giọng Hà Nội là chuẩn quốc gia.[24]

Đặc trưng trong giọng các vùng miền
Miền Bắc Miền Trung Miền Nam
này ni,
thế này ri nì vầy, như vầy
ấy nớ, đó
thế, thế ấy rứa, rứa tề, rứa đó vậy, vậy đó
kia đó
kìa tề đó
đâu đâu
nào mồ nào
sao, thế nào răng sao
tôi tui tui
tao tau tao
chúng tôi bọn tui tụi tui
chúng tao bọn tau, bọn choa tụi tao
mày mi mầy
chúng mày bây, bọn bây tụi bây
hấn
chúng nó bọn hấn tụi nó
ông ấy ông nớ ổng
bà ấy bà nớ bả
cô ấy dì nớ cổ
chị ấy chị nớ chỉ
anh ấy anh nớ ảnh

Ngữ âm

Nguyên âm

Dưới đây là bảng những nguyên âm theo giọng TP.HN .

Trong bảng trên, các nguyên âm trước, giữa và nguyên âm mở là nguyên âm không tròn môi, còn lại là nguyên âm tròn môi. Ăâ là dạng ngắn của aơ.

Đồng thời, tiếng Việt còn có mạng lưới hệ thống nguyên âm đôi và nguyên âm ba .

Phụ âm

Bảng dưới đây trình diễn những phụ âm trong tiếng Việt và cách viết .

1 số phụ âm chỉ có một cách viết (như b, p) nhưng một số có nhiều hơn một cách viết như k, có thể biểu diễn bằng c, k hay q.
Đồng thời, các phụ âm có thay đổi tuỳ theo địa phương. Sự khác biệt về phụ âm giữa các vùng miền trình bày kỹ càng hơn trong bài phương ngữ tiếng Việt.

Thanh điệu

Tiếng Việt là ngôn ngữ thanh điệu, mọi âm tiết của tiếng Việt luôn mang 1 thanh điệu nào đó. Do các thanh điệu của tiếng Việt trong chữ quốc ngữ biểu thị bằng các dấu thanh còn gọi là dấu nên một số người quen gọi các thanh điệu của tiếng Việt là các “dấu”. Có sự khác biệt về số lượng thanh điệu và điệu trị của thanh điệu giữa các phương ngôn của tiếng Việt, thanh điệu có tên gọi giống nhau không đồng nghĩa với việc nói chúng sẽ giống nhau trong mọi phương ngôn của tiếng Việt. Phương ngôn tiếng Việt Bắc Bộ có 6 thanh điệu, phương ngôn tiếng Việt Trung Bộ và Nam Bộ có 5 thanh điệu. Thanh điệu của tiếng Việt tiêu chuẩn gồm 6 thanh: ngang (còn gọi là thanh không dấu do chữ quốc ngữ không có dấu thanh cho thanh điệu này), sắc, huyền, hỏi, ngã, nặng nhưng lại thiếu các quy định cụ thể về việc lấy cách phát âm trong phương ngôn nào của tiếng Việt làm cách phát âm tiêu chuẩn cho 6 thanh điệu này.

Các âm tiết mang vần nhập thanh, tức là những vần kết thúc bằng 1 trong 3 phụ âm cuối / k / ( chữ quốc ngữ ghi lại bằng vần âm ” c ” hoặc vần âm nhị hợp ” ch ” ), / t / ( chữ quốc ngữ ghi lại bằng vần âm ” t ” ), / p / ( chữ quốc ngữ ghi lại bằng vần âm ” p ” ) chỉ hoàn toàn có thể mang thanh sắc hoặc thanh nặng. 3 âm tắc trên đã làm cho những âm tiết mang vần nhập thanh chỉ hoàn toàn có thể mang những thanh điệu có điệu trị ngắn và nhanh .

Trong thơ ca các thanh điệu phân thành 2 nhóm: thanh bằng gồm có nganghuyền, thanh trắc gồm các thanh còn lại. Trong các thể thơ cổ như Đường luật và lục bát, có thể có sự hòa hợp thanh điệu bằng trắc giữa các tiếng trong 1 câu thơ.

Ngữ pháp

Tiếng Việt là 1 ngôn từ đơn lập. Các quan hệ ngữ pháp biểu lộ hầu hết trải qua mạng lưới hệ thống hư từ và cách sắp xếp trật tự từ trong câu. Trật tự từ thông dụng nhất trong tiếng Việt là chủ ngữ – vị ngữ – phụ ngữ ( SVO ). Tuy nhiên, trật tự trong câu hoàn toàn có thể trong một số ít trường hợp sắp xếp theo kiểu ngôn từ điển hình nổi bật chủ đề, vì vậy mà 1 câu hoàn toàn có thể theo trật tự Phụ ngữ – Chủ ngữ – Vị ngữ ( OSV ) .Vị trí những từ sắp xếp theo thứ tự, từ mang ý chính đứng trước từ mang ý phụ đứng sau bổ trợ nghĩa cho từ mang ý chính, tựa như như danh từ đứng trước tính từ đứng sau bổ trợ nghĩa cho danh từ. Tuy nhiên trong một số ít trường hợp, bổ ngữ ( gồm có từ mang ý phụ và tính từ ) sẽ đứng trước danh từ .Tiếng Việt còn có mạng lưới hệ thống đại từ nhân xưng dựa trên những từ ngữ chỉ quan hệ xã hội và mạng lưới hệ thống danh từ đơn vị chức năng .

Từ vựng

Từ vựng tiếng Việt có 2 bộ phận chính : từ thuần Việt và từ mượn. Ngoài ra còn có những từ hỗn chủng là hiệu quả của sự phối hợp những yếu tố thuần Việt và ngoại lai .

Từ thuần Việt

Từ thuần Việt là những từ Open lâu hơn trong tiếng Việt, bộc lộ những sự vật, hiện tượng kỳ lạ, khái niệm cơ bản nhất trong đời sống hằng ngày. Do có sự tiếp xúc từ sớm hơn với những ngôn từ nhóm Tày-Thái nên nhiều từ thuần Việt và những từ tương ứng trong những tiếng này có sự giống nhau nhất định về ngữ âm và ngữ nghĩa. [ 25 ]Trước 1960, 1 số ít từ thuần Việt dùng để đặt tên thông tục cho người trong những tầng lớp tầm trung hoặc để tránh bị ma quỷ thần thánh bắt đi. Tại miền Bắc có những tên như ” Rụt “, ” Tằm “, ” Cột “, ” Cu “, ” Gái “, … Tại miền Nam có những tên như ” Đực “, … Sự tăng trưởng dân trí dẫn đến cách đặt tên thông tục giảm dần .

Từ Hán Việt

Sự tiếp xúc giữa tiếng Việt và tiếng Hán mở màn khi nhà Hán của Trung Quốc lấn chiếm khu vực Nước Ta. Quá trình tiếp xúc đã đưa vào tiếng Việt một khối lượng từ ngữ của tiếng Hán. Giai đoạn đầu, hiện tượng kỳ lạ này diễn ra lẻ tẻ, rời rạc hơn đa phần trải qua đường khẩu ngữ qua sự tiếp xúc giữa người Việt và người Hán, tạo nên 1 lớp từ có nguồn gốc Hán cổ mà đã hoà lẫn với những từ thuần Việt. [ 26 ] Đến đời Đường, tiếng Việt mới có sự đảm nhiệm những từ ngữ Hán một cách có mạng lưới hệ thống qua đường sách vở. Các từ ngữ gốc Hán này đa phần đọc theo ngữ âm đời Đường tuân thủ nguyên tắc ngữ âm tiếng Việt gọi là âm Hán – Việt. Khi đưa vào tiếng Việt, bên cạnh việc biến hóa về mặt ngữ âm, 1 số ít từ Hán Việt đổi khác cả ngữ nghĩa. [ 26 ]Từ Hán-Việt chiếm 1 phần trong vốn từ vựng tiếng Việt, chúng hiện hữu một số ít nghành nghề dịch vụ của đời sống xã hội .

Từ có nguồn gốc Ấn – Âu

Kể từ khi Nước Ta trở thành thuộc địa của Pháp, tiếng Pháp đã có ảnh hưởng tác động đến tiếng Việt và những từ ngữ gốc Pháp xâm nhập vào tiếng Việt. Sự tác động ảnh hưởng này là do tiếng Pháp có sử dụng trong những văn bản, sách vở của Nhà nước và trong giảng dạy ở nhà trường cũng như trong những loại sách báo khác. Ảnh hưởng này kéo theo sự Open của những từ gốc Pháp trong những nghành khác nhau đặc biệt quan trọng là trong khoa học kỹ thuật .Trong thời kỳ Chiến tranh Nước Ta, miền Bắc Nước Ta chịu tác động ảnh hưởng của Liên Xô. Do đó, một số ít từ ngữ gốc Nga có điều kiện kèm theo gia nhập vào tiếng Việt. Đồng thời, cùng với sự tiếp xúc, hội nhập sâu rộng hơn với quốc tế, trong tiếng Việt cũng Open những từ ngữ có nguồn gốc từ tiếng Anh .Nhìn chung, khi đưa vào tiếng Việt, những từ này đã Việt hoá về mặt âm đọc ( thêm thanh điệu, biến hóa âm hoặc giảm bớt âm tiết ). Những từ đơn âm tiết ( hoặc đơn âm hoá ), vay mượn qua khẩu ngữ xâm nhập vào tiếng Việt. Trong khi đó, những từ có 2 âm tiết trở lên, vay mượn trải qua sách vở vẫn còn dấu ấn ngoại lai. [ 27 ] Có những từ vay mượn nguyên dạng nên tạo tác động ảnh hưởng trong cách phát âm .

Từ có nguồn gốc tiếng dân tộc thiểu số

Là 1 nước đa sắc tộc với 54 dân tộc bản địa đã công nhận, tiếng Việt đại trà phổ thông đảm nhiệm 1 phần tiếng dân tộc thiểu số, gồm từ thông dụng và tên riêng của người hay địa vật và những từ này hoàn toàn có thể có vần ” phi Việt “. Quá trình này diễn ra trong lịch sử dân tộc. Dựa theo tên người / tên tuổi đăng tải trên báo chí truyền thông và những địa điểm trên những map hành chính, tất cả chúng ta hoàn toàn có thể phân loại những cách nhập tiếng dân tộc thiểu số như sau : [ 28 ]

Các chữ và vần “phi Việt” viết theo hướng dẫn trong Quyết định 240/QĐ “Về tên riêng không phải tiếng Việt“,[30] trong đó các chữ cái F, J, W, Z có thể tùy nghi sử dụng.

Từ hỗn chủng

Từ hỗn chủng là những từ tạo thành từ những yếu tố có nguồn gốc khác nhau như giữa yếu tố thuần Việt và Hán Việt, giữa yếu tố thuần Việt và yếu tố Ấn-Âu. Cùng với sự tăng trưởng của tiếng Việt, những từ hỗn chủng đã ngày càng tăng, đóng 1 vai trò trong việc diễn đạt những khái niệm mới hơn trong xã hội .Ví dụ :

  • vôi hoá (Hán-Nôm: ?化) – “vôi” là thuần Việt, “hoá” là Hán-Việt.
  • ôm kế – “ôm” là từ tiếng Đức Ohm, “kế” là Hán-Việt.
  • nhà băng – “nhà” là thuần Việt, “băng” là từ tiếng Pháp banque.
  • game thủ – “game” là tiếng Anh, “thủ” là Hán-Việt.

Chữ viết

Phan Trần Truyện (潘陳傳) viết bằng chữ Nôm, bản in năm 1902, viết dọc.( 潘陳傳 ) viết bằng chữ Nôm, bản in năm 1902, viết dọc . Dictionarium Annamiticum Lusitanum et Latinum tức Từ điển Việt-Bồ-La in năm 1651Một trangtứcin năm 1651Theo dòng lịch sử vẻ vang tăng trưởng, tiếng Việt có 2 dạng ký tự để viết là chữ Nôm ( dựa trên chữ Hán ) và chữ quốc ngữ ( chữ Latinh ) .Chữ Nôm là văn tự chính của tiếng Việt trước thế kỷ 20. Tất cả những tác phẩm sử học và văn học truyền thống Nước Ta đều viết bằng chữ Nôm như Chiếu dời đô, Hịch tướng sĩ, Bình Ngô đại cáo, Đoạn trường tân thanh, Đại Việt sử ký toàn thư, …

Chữ Quốc ngữ là chữ Latinh dựa trên bảng chữ cái và âm vị của tiếng Bồ Đào Nha đối chiếu với tiếng Việt, do các nhà truyền giáo Dòng Tên Bồ Đào Nha xây dựng vào đầu thế kỷ 17 rồi do giáo sĩ Alexandre de Rhodes người Avinhon chuẩn định.[31] Đây là người cho in cuốn Dictionarium Annamiticum Lusitanum et Latinum năm 1651. Cuối thế kỷ 18 tại Đàng Trong diễn ra cuộc chỉnh lý chữ Quốc ngữ dưới sự điều phối của Giám mục Pierre Pigneau de Behaine (hay còn biết tới dưới tên Bá Đa Lộc), từ điển có tên Dictionarium Anamatico-Latinum soạn quãng năm 1772–1773 nhưng mới chỉ là bản viết tay. Sau đó, từ điển của Taberd mang tên Nam Việt–Dương Hiệp Tự vị (tựa Latinh giống với tựa cuốn của Bá Đa Lộc) xuất bản năm 1838 tại Serampore, Ấn Độ.[cần dẫn nguồn]

Chữ Quốc ngữ từ lúc sinh ra tuy có hơn 200 năm hình thành và tăng trưởng, nhưng chưa đủ phổ cập để là văn tự chính ở Nước Ta vì chữ Nôm vẫn là dạng văn tự thông dụng của tiếng Việt. Phải đến cuối thế kỷ 19, vào thời kỳ Pháp thuộc, chính quyền sở tại thuộc địa bảo lãnh chữ Quốc ngữ và cổ súy sửa chữa thay thế chữ Hán Nôm để tiếng Việt đồng văn tự Latinh với tiếng Pháp, mở màn từ Nam Kỳ rồi tới Bắc Kỳ và Trung Kỳ để thuận tiện phổ cập tiếng Pháp và văn hóa truyền thống Pháp. Còn những nhà cải cách Nước Ta ủng hộ việc truyền bá hệ chữ Latinh như phương tiện đi lại để khai dân trí, chấn dân khí. Cải cách giáo dục năm 1906 của vua Thành Thái cũng gồm có chương trình dạy chữ Quốc ngữ. Tuy vậy trong quá trình này, sự bóc lột của Thực dân Pháp khiến người Việt không được đi học khá đầy đủ, nên hầu hết người Việt quá trình này trở nên mù chữ với cả chữ Hán, chữ Nôm và chữ Quốc ngữ. Ngay sau khi Việt Nam Dân chủ Cộng hòa lập quốc, nhà nước phát động Bình dân học vụ với tiềm năng nhanh gọn xử lý nạn mù chữ bằng cách tăng nhanh dạy chữ Quốc ngữ cho người dân. Chữ Hán và chữ Nôm vẫn được một lượng người Việt sử dụng song song cùng chữ Quốc ngữ, nhưng đến năm 1950, giảng dạy chữ Hán Nôm bị loại ra khỏi chương trình giáo dục của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa vì độ thông dụng ở Nước Ta không còn nhiều. [ 32 ]Tại Nước Ta lúc bấy giờ, người dân hầu hết sử dụng chữ Quốc ngữ là chính, còn chữ Hán và chữ Nôm thường dùng trong những hoạt động giải trí tương quan tới văn hóa truyền thống truyền thống cuội nguồn như viết thư pháp, câu đối, khám phá lịch sử vẻ vang và văn học cổ, và được giảng dạy trong chuyên ngành Hán Nôm bậc ĐH cũng như tại những tổ chức triển khai trào lưu dạy học chữ Hán và chữ Nôm được sử dụng trong tiếng Việt. Trái ngược lại là hội đồng người Kinh địa phương ở Đông Hưng ( Trung Quốc ), do không bị ảnh hưởng tác động bởi chủ trương thay thế sửa chữa chữ Hán và chữ Nôm bằng chữ Quốc ngữ của Thực dân Pháp ( vùng đất họ sống trở thành chủ quyền lãnh thổ Đại Thanh theo Công ước Pháp-Thanh ký năm 1887, nên họ không bị Thực dân Pháp đô hộ ), những thế hệ con cháu ở đây không bị gián đoạn chuyện đi học và không bị mù chữ. Người Kinh địa phương ở Đông Hưng vẫn duy trì được sự phổ cập của chữ Hán và chữ Nôm trong hội đồng và vẫn dùng làm văn tự chính cho tiếng Việt ở thời văn minh giống như người Việt xưa, thay vì dùng chữ Latinh như người Việt ở Nước Ta hiện tại. [ 33 ]

Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam 2013, tại Chương I Điều 5 Mục 3, ghi tiếng Việt là ngôn ngữ quốc gia của Việt Nam.[34] Không có bất kỳ văn bản nào ở cấp nhà nước quy định giọng chuẩnquốc tự (“chữ viết quốc gia” hoặc văn tự chính thức) của tiếng Việt.[35] Phần lớn các văn bản hành chính tiếng Việt ở Việt Nam được viết bằng chữ Quốc ngữ theo “Quy định về chính tả tiếng Việt và về thuật ngữ tiếng Việt” áp dụng cho các sách giáo khoa, báo và văn bản của ngành giáo dục, nêu tại Quyết định của Bộ Giáo dục số 240/QĐ ngày 5 tháng 3 năm 1984[30] do những người thụ hưởng giáo dục đó sau này ra làm việc trong mọi lĩnh vực xã hội hướng tới việc chuẩn hóa chính tả tiếng Việt. Không có luật lệ nào cấm người Việt viết tiếng Việt hiện đại bằng chữ Hán Nôm.

Thư pháp

Cùng với chữ Hán, Kana và Hangul, có người ” thương mến ” thư pháp nâng chữ viết tiếng Việt lên thành một bộ môn thẩm mỹ và nghệ thuật .

Thư pháp chữ Việt ban đầu là thư pháp chữ Nôm và chữ Hán. Sau này chữ Quốc ngữ trở nên phổ biến hơn trong khi nhu cầu và sở thích treo chữ trong nhà vẫn còn, người chơi chữ đã khởi xướng thư pháp chữ Quốc ngữ. Còn thư pháp chữ Hán và chữ Nôm hiện nay vẫn duy trì song song.

Bộ gõ tiếng Việt và tiếp xúc tiếng Việt qua mạng

Tuy cùng là chữ Latinh, ngoài 22 ký tự không dấu có trong bảng chữ cái tiếng Anh thì chữ Quốc ngữ còn chứa lượng ký tự có dấu, bao gồm 7 ký tự Ă, Â, Đ, Ê, Ô, Ơ, Ư cùng 60 chữ nguyên âm (A, Ă, Â, E, Ê, I, O, Ô, Ơ, U, Ư, Y) mang thanh điệu sắc-huyền-hỏi-ngã-nặng. Tổng cộng là máy tính hay điện thoại cần phải nạp thêm 67 ký tự, gấp hơn 2,5 lần bảng chữ cái của tiếng Anh (26 ký tự) thì mới đủ để viết tiếng Việt. Nên để có thể viết tiếng Việt trên máy tính và điện thoại di động cần có bộ gõ là phần mềm hỗ trợ soạn thảo văn bản bằng tiếng Việt đi kèm một số phông chữ Quốc ngữ. Người dùng cũng có thể cài đặt thêm các phông ký tự chữ Quốc ngữ khác phục vụ trang trí và nghệ thuật. Các bộ gõ tiếng Việt khác nhau sẽ quy định các phím bấm khác nhau để hiển thị các dấu thanh, dấu mũ và dấu móc. Có những quy ước chuẩn dấu tiếng Việt, bộ mã, cách gõ và những phần mềm khác nhau. Có bộ mã chữ Việt theo chuẩn quốc tế Unicode.

Do ký tự có dấu phải mã hóa mất lượng bộ nhớ lớn hơn ký tự không dấu, việc tin nhắn SMS bằng tiếng Việt có dấu bị hạn chế 70 ký tự/tin nhắn (ít hơn một nửa so với 180 ký tự/tin nhắn của tiếng Anh) nên trước đây người Việt thường nhắn tin SMS không dấu để có thể viết nhiều nội dung hơn và tiết kiệm tiền hơn dù nội dung bằng tiếng Việt không dấu có thể gây hiểu nhầm. Một số trường hợp lợi dụng viết tắt, biến đổi ký tự nhằm giảm số lượng (j=gi; f=ph; bỏ h trong “gh”,”ngh”) hay thể hiện rõ âm (z=d vì “đ” viết không dấu thành “d”). Hiện nay nhờ sự phát triển của Internet trên di động (như Wi-Fi, 4G không giới hạn dung lượng) cùng các ứng dụng OTT và mạng xã hội, việc nhắn tin bằng tiếng Việt có dấu trở nên thoải mái hơn mà không lo bị hạn chế ký tự.

Đối với việc gõ chữ Hán và chữ Nôm bằng tiếng Việt, do dạng ký tự này hiện không được sử dụng thông dụng ở Nước Ta nên những hãng sản xuất máy tính, điện thoại thông minh hay ứng dụng coi như vô hiệu. Thời gian gần đây để Giao hàng cho nhu yếu tìm hiểu và khám phá về lịch sử dân tộc hay văn học cổ cũng như chuyên ngành Hán Nôm, một số ít cá thể hay tổ chức triển khai đã tạo ra những website hay ứng dụng giúp viết chữ Hán và chữ Nôm bằng bộ gõ chữ Quốc ngữ. Với chữ Hán do đồng điệu với những chữ của bộ gõ tiếng Trung và tiếng Nhật nên việc hiển thị không khó khăn vất vả, còn chữ Nôm do một lượng chữ chưa được mã hoá khá đầy đủ nên hoàn toàn có thể hiển thị bị lỗi trên 1 số ít máy tính và điện thoại thông minh dưới dạng ô vuông hay dấu hỏi chấm .

Chú thích

  1. ^ “Khu tự trị dân tộc Choang Quảng Tây” xuất hiện trên Báo ảnh Trung Quốc cỡ năm 1958, do biên tập viên của báo trú tại Hà Nội đã phiên âm trực tiếp từ Zhuang theo giọng Hà Nội thành Choang mà lẽ ra phải là Troang hay Truang. Giới chức Quảng Tây sử dụng tên này khi sang làm việc với bên Việt Nam.

    Tên gọixuất hiện trêncỡ năm 1958, do biên tập viên của báo trú tại Hà Nội đã phiên âm trực tiếp từtheo giọng Hà Nội thànhmà lẽ ra phải làhay. Giới chức Quảng Tây sử dụng tên này khi sang làm việc với bên Việt Nam.

  2. ^

    Giọng Bắc ví dụ như giọng vùng Nam Định – Thái Bình (trừ ra chỗ nói ngọng l-n) và trước đây có thể coi là giọng chuẩn tiếng Việt. Giọng Hà Nội nói nhẹ hơn, không phân biệt s-x, gi-d, ch-tr,… Có thể không xem nó là chuẩn và đặc trưng của vùng. Có người nước ngoài đến học tập tại Hà Nội đã bị nhiễm giọng này và coi là giọng đặc trưng của tiếng Việt.

Tham khảo

Liên kết ngoài