Cá kèo – Wikipedia tiếng Việt

Cá kèo hay còn được gọi là cá bống kèo (danh pháp khoa học: Pseudapocryptes elongatus) là loại cá sông thuộc họ cá Oxudercidae. Có khi được gọi đầy đủ là cá kèo vảy nhỏ để phân biệt với một loài cá kèo khác là cá kèo vảy to (Parapocryptes serperaster).

Cá bống kèo đầu nhỏ, hình chóp, mõm tù hướng xuốn phía dưới. Miệng hẹp có nhiều răng, không có râu. Dưới mõm có hai mép râu nhỏ phủ lên môi trên. Mắt nhỏ và tròn nằm gần phía đỉnh của đầu. Hai vây sống lưng rời nhau. Hai vây bụng dính với nhau. Vây đuôi dài và nhọn .Thân cá hình tròn trụ dài, dẹp dần về phía đuôi, có màu ửng vàng, nửa trên của thân có chừng 7-8 sọc đen hớng hơi xéo về phía trước, những sọc này rõ dần về phía đuôi. Cá bống kèo sống chui rúc trong bùn và đào hang để trú. Cá chuyển dời theo con nước, khi tìm được nơi thích hợp sẽ đào hang để ở lại. Cá thuộc loại ăn tạp, ruột ngắn. Thực phẩm chính là những nhuyến thể như tôm nhò, giun, phiêu sinh vật, plankton ..

Khu vực sinh sống[sửa|sửa mã nguồn]

Cá kèo phân bố rộng tại những vùng cửa sông và gian thủy triều tại Ấn Độ, Bangladesh, Campuchia, Đài Loan, Indonesia, Malaysia, Nhật Bản, Singapore, Tahiti, Thái Lan, Trung Quốc, Việt Nam.

Môi trường sống là đáy bùn.

Tại Nước Ta[sửa|sửa mã nguồn]

Cá kèo thông dụng ở miền Tây Nam Bộ, thịt cá mềm, được dùng để chế biến ra nhiều món ăn như lẩu cá kèo ( cá kèo kho gợt ), cá kèo kho tộ ( cá kèo kho khô ), cá kèo nướng muối ớt, khô cá kèo [ 2 ] [ 3 ] .Tại Nước Ta cá tập trung chuyên sâu trong vùng đồng bằng sông Cửu Long, nhất là tại Sóc Trăng, Bạc Liêu, Cà Mau, Kiên Giang, thích hợp với những ao hồ kênh-mương nước lợ. Cá còn được nuôi tại những ruộng muối. Cá sinh sản tự nhiên tại những bãi bồi ven biển, mùa sinh sản trong những tháng từ 4 đến 9. Các điều tra và nghiên cứu để tạo điều kiện kèm theo sinh sản cho cá khi nuôi trong những thiên nhiên và môi trường tự tạo chưa đạt được hiệu quả. Thịt cá bống kèo rất được ưu thích tại Nước Ta do có mùi vị riêng, trắng ngon và giá trị dinh dưỡng cao .