Tư tưởng Hồ Chí Minh – Wikipedia tiếng Việt

Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm và tư tưởng của Hồ Chí Minh trong sự nghiệp cách mạng của ông được Đảng Cộng sản Việt Nam tổng kết, hệ thống hóa. Hệ thống tư tưởng này bao gồm những quan điểm về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam,[1] từ cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân đến cách mạng xã hội chủ nghĩa; vận dụng và phát triển Chủ nghĩa Mác-Lênin vào điều kiện cụ thể của Việt Nam.[2]

Các nội dung trong tư tưởng Hồ Chí Minh được hình thành và tăng trưởng gắn với những thời kì hoạt động giải trí của Hồ Chí Minh trong trào lưu cách mạng Nước Ta và quốc tế [ 3 ] vào đầu và giữa thế kỷ 20. Giáo trình tư tưởng Hồ Chí Minh đánh giá và nhận định Tư tưởng Hồ Chí Minh là sự kết tinh của văn hóa truyền thống dân tộc bản địa Nước Ta, tư tưởng cách mạng Pháp, tư tưởng tự do của Hoa Kỳ, lý tưởng cộng sản Marx – Lenin, tư tưởng văn hóa truyền thống phương Đông, văn hóa truyền thống phương Tây và phẩm chất cá thể của Hồ Chí Minh. [ 4 ]

Tư tưởng Hồ Chí Minh đã được xác định là một hệ tư tưởng chính thống của Đảng Cộng sản Việt Nam bên cạnh chủ nghĩa Mác-Lênin, được chính thức đưa ra từ Đại hội VII của Đảng. Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước Việt Nam cùng các quan điểm chính thống ở Việt Nam hiện nay đều thống nhất đánh giá Tư tưởng Hồ Chí Minh chính là cách vận dụng sáng tạo Chủ nghĩa Mác-Lênin trong điều kiện cụ thể của Việt Nam và coi tư tưởng Hồ Chí Minh đã trở thành một tài sản tinh thần quý báu của Đảng Cộng sản Việt Nam và của dân tộc Việt Nam.[5] Đảng Cộng sản Việt Nam xác định lấy Chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh là kim chỉ nam cho mọi hành động và thắng lợi của cách mạng Việt Nam.[6][7] Đảng Cộng sản Việt Nam luôn tăng cường tuyên truyền thúc đẩy việc học tập và làm theo Tư tưởng Hồ Chí Minh ở tất cả các tầng lớp trong xã hội.

Phần lớn các giáo trình tư tưởng Hồ Chí Minh không phân tích các quan điểm của ông theo các thời kỳ lịch sử, không phân tích cụ thể các tác phẩm của ông theo chiều thời gian. Điển hình như năm 1930 khi thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam, ông cho rằng đấu tranh giải phóng dân tộc đi kèm đấu tranh giải phóng giai cấp. Khi thành lập Việt Minh thì gác lại chủ trương đấu tranh giai cấp mà thực hiện đấu tranh đòi các quyền tự do dân chủ và đoàn kết toàn dân chống phát xít theo đường lối Quốc tế Cộng sản (chủ trương này khá trùng lặp với đường lối của Nguyễn Văn Cừ khi làm Tổng bí thư). Đến giai đoạn năm 1945, khi cần tranh thủ sự ủng hộ của Đồng Minh cho nền độc lập của Việt Nam, ông tuyên bố “giải tán Đảng Cộng sản Đông Dương” và tán dương nền dân chủ.

Tư tưởng Hồ Chí Minh chỉ chính thức đưa vào Cương lĩnh của Đảng Cộng sản Việt Nam năm 1991, sau khi công cuộc Đổi mới phát động, chấp thuận đồng ý phân hóa giai cấp, nhiều lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin không có tính khả thi trong cơ chế thị trường phải gác lại như đạo đức xã hội chủ nghĩa, thiết kế xây dựng con người xã hội chủ nghĩa, làm theo năng lượng hưởng theo lao động trên toàn xã hội … ( chủ nghĩa cộng sản đặt ra tiềm năng ở đầu cuối là xóa bỏ giai cấp, bóc lột, xóa bỏ giàu – nghèo, làm theo năng lượng hưởng theo nhu yếu, công hữu trên nền tảng dân chủ, xóa bỏ giáo điều tôn giáo được xem là mị dân, xóa bỏ nhà nước đi đến dân chủ trực tiếp và bình đẳng, xóa bỏ những đường biên giới vương quốc, đưa những dân tộc bản địa đến cùng một quyền lợi, xóa bỏ bất bình đẳng giữa những dân tộc bản địa trên khoanh vùng phạm vi quốc tế … ). Các giáo trình của Nước Ta thường khai thác tư tưởng Hồ Chí Minh theo khunh hướng trên .

Hoàn cảnh sinh ra

Nước Ta cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX

Vào cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, chính quyền nhà Nguyễn đã thi hành chính sách đối nội, đối ngoại bảo thủ, không mở ra cho Việt Nam cơ hội tiếp xúc và bắt nhịp với sự phát triển của thế giới. Không phát huy được những thế mạnh của truyền thống dân tộc và đất nước, không chống lại được âm mưu xâm lược của thực dân Pháp. Khi thực dân Pháp xâm lược Việt Nam năm 1858 và đến năm 1883, triều đình Huế ký kết Hiệp ước Harmand với đế quốc Pháp, thừa nhận quyền bảo hộ của họ trên khắp An Nam.[8] Từ sau Hiệp ước Patenôtre năm 1884, Việt Nam trở thành một nước thuộc địa nửa phong kiến.

Trong suốt quy trình thực dân Pháp quản lý, từ giữa thế kỷ XIX đến đầu thế kỷ XX, đã có nhiều cuộc khởi nghĩa nổi dậy chống thực dân Pháp. Các cuộc khởi nghĩa vũ trang dưới khẩu hiệu ” Cần vương ” do những văn thân, sĩ phu chỉ huy sau cuối cũng thất bại. Các cuộc khởi nghĩa vũ trang này mang đậm niềm tin yêu nước và đầy dũng khí trước quân địch, nhưng đều dưới sự dẫn dắt của những tư tưởng phong kiến và tư sản và đều thất bại. Cách mạng Nước Ta lâm vào cuộc khủng khoảng chừng thâm thúy về đường lối cứu nước. [ 9 ]Các cuộc khai thác thuộc địa của thực dân Pháp ở Nước Ta đã làm cho xã hội Nước Ta có sự phân hóa giai cấp-xã hội thâm thúy. Tạo tiền đề bên trong cho trào lưu đấu tranh giải phóng đân tộc đầu thế kỷ XX. Xã hội Nước Ta sống sót nhiều xích míc. Có thể kể ra những xích míc chính sau : [ 10 ] [ 11 ]

  • Mâu thuẫn giữa dân tộc Việt Nam và thực dân Pháp.
  • Mâu thuẫn giữa người dân lao động và quan lại phong kiến.
  • Mâu thuẫn giữa giai cấp công nhân Việt Nam và giai cấp tư sản.

Đầu thế kỷ XX, những trào lưu vũ trang kháng chiến chống Pháp rầm rộ, lan rộng ra cả nước nhưng đều thất bại ( chủ trương cầu viện, dùng vũ trang Phục hồi độc lập của Phan Bội Châu ; chủ trương ” ỷ Pháp cầu văn minh ” bằng cách chấn dân khí, khai dân trí, hậu dân số, trên cơ sở đó mà từ từ tính chuyện giải phóng của Phan Châu Trinh ; khởi nghĩa nặng cốt cách phong kiến của Hoàng Hoa Thám ; khởi nghĩa theo khuynh hướng cách mạng dân chủ tư sản của Nguyễn Thái Học ) .Sự thất bại của trào lưu chống thực dân Pháp cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX vừa chứng tỏ sự lỗi thời của hệ tư tưởng phong kiến, sự yếu ớt và bất lực của hệ tư tưởng tư sản, vừa từng bước chuẩn bị sẵn sàng tiền đề cho một phương hướng mới của sự nghiệp giải phóng dân tộc bản địa. [ 12 ] [ 13 ] Theo Tạp chí Cộng sản, những điều này cho thấy, trào lưu cứu nước của nhân dân Nước Ta muốn đi đến thắng lợi, phải đi theo con đường mới, đó là con đường cách mạng vô sản. [ 14 ]

Thế giới

Thế giới trong quy trình tiến độ cuối thế kỷ XIX đến đầu thế kỷ XX cũng đang có những biến chuyển to lớn :

  • Chủ nghĩa tư bản từ giai đoạn cạnh tranh tự do đã chuyển sang giai đoạn độc quyền, xác lập quyền thống trị trên phạm vi toàn thế giới. Chủ nghĩa đế quốc với bản chất của mình đã trở thành kẻ thù chung của tất cả các dân tộc thuộc địa.[15]
  • Thực tế lịch sử: trong quá trình xâm lược và thống trị của chủ nghĩa thực dân, tại các nước nhược tiểu ở châu Á, châu Phi và khu vực Mỹ Latinh, sự bóc lột phong kiến trước kia vẫn được duy trì bên cạnh sự bóc lột thuộc địa mang tính tư bản chủ nghĩa. Bên cạnh các giai cấp cơ bản trước kia, đã xuất hiện thêm các giai cấp, tầng lớp xã hội mới, trong đó có công nhân và tư sản.[16]
  • Chiến tranh Thế giới I bùng nổ.[15]
  • Từ cuộc đấu tranh sôi nổi của công nhân các nước tư bản chủ nghĩa cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỉ XX đã dẫn đến một cao trào mới của cách mạng thế giới với đỉnh cao là Cách mạng Tháng Mười Nga thắng lợi (1917). Cuộc cách mạng vĩ đại này đã làm “Thức tỉnh các dân tộc châu Á”, Cuộc cách mạng vô sản ở nước Nga thành công đã nêu một tấm gương sáng về sự giải phóng các dân tộc bị áp bức, mở ra trước mắt họ thời đại cách mạng chống đế quốc, thời đại giải phóng dân tộc.[13]
  • Quốc tế III được thành lập (1919). Phong trào công nhân trong các nước Tư bản Chủ nghĩa và phong trào giải phóng của các nước thuộc địa càng có quan hệ mật thiết với nhau trong cuộc đấu tranh chống kẻ thù chung của họ là Chủ nghĩa Đế quốc.[15][17]

Nguồn gốc

Truyền thống dân tộc bản địa Nước Ta

Chủ nghĩa yêu nước với ý chí bất khuất, tự lực, tự cường để dựng nước và giữ nước tồn tại trong suốt lịch sử của dân tộc. Đồng thời, trong quá trình dựng nước, giữ nước, tinh thần đoàn kết và ý thức dân chủ cũng xuất hiện. Tinh thần đoàn kết và ý thức dân chủ làm cho mối quan hệ Cá nhân – Gia đình – Làng – Nước ngày càng trở nên bền chặt và nương tựa vào nhau để sinh tồn và phát triển. Giá trị truyền thống của người Việt là dũng cảm, cần cù, dẻo dai trong lao động sản xuất, chiến đấu để sinh tồn và phát triển trước thiên nhiên và kẻ thù xâm lược. Nhưng đồng thời, trong quá trình đó, dân tộc Việt Nam cũng tiếp nhận những giá trị văn hóa, văn minh của nhân loại. Người Việt có tư duy mở và mềm dẻo khiến họ dễ dàng tiếp nhận những tư tưởng bên ngoài. Trong khi là đảng viên Đảng xã hội Pháp, Hồ Chí Minh đã tiếp nhận chủ nghĩa Lenin với mục tiêu giải phóng dân tộc trong lúc nhiều đồng chí Pháp của ông chọn con đường dân chủ xã hội với chủ trương cải cách xã hội nhưng chấp nhận nền dân chủ. Chủ nghĩa yêu nước là điểm xuất phát, là cơ sở để Hồ Chí Minh tiếp nhận chủ nghĩa Marx – Lenin; là một trong những nguồn gốc chủ yếu hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh.[4]

Tư tưởng Đông – Tây

Tư tưởng Hồ Chí Minh được hình thành trên cơ sở tiếp thu tư tưởng Đông – Tây mà trước hết là tư tưởng phương Đông mà đặc trưng là Phật giáo và Nho giáo đã được Việt hóa. Phật giáo và Nho giáo Việt Nam đã tác động tới Hồ Chí Minh ngay từ khi còn nhỏ ở trong môi trường giáo dục – văn hóa Việt của làng xã Việt Nam, dưới sự dạy bảo của gia đình với người cha, vừa là thầy và những nhà nho yêu nước khác. Sau này, khi trở thành người cộng sản, ông vẫn tiếp tục tìm hiểu những trào lưu tư tưởng mới ở Ấn Độ và Trung Hoa mà điển hình là chủ nghĩa Gāndhī và chủ nghĩa Tôn Dật Tiên. Ông đã tìm thấy trong “chủ nghĩa Tôn Dật Tiên có ưu điểm là chính sách của nó phù hợp với điều kiện nước ta”.

Năm 1923, trong lý lịch tự khai khi đến Liên Xô, Nguyễn Ái Quốc tự giới thiệu: “Tôi xuất thân từ một gia đình nhà Nho, nơi mà các thanh niên đều theo học đạo Khổng”. Rồi tại Đại hội Quốc tế cộng sản năm 1935, Nguyễn Ái Quốc lại ghi trong lý lịch: “Thành phần gia đình nhà nho”.

Sự tương đồng giữa thuyết Đại đồng của Nho giáo và chủ nghĩa cộng sản khiến Hồ Chí Minh và nhiều nhà lãnh đạo cách mạng Việt Nam khác có nền tảng Nho học dễ dàng chấp nhận chủ nghĩa cộng sản. Hồ Chí Minh thấy được khả năng thích ứng của chủ nghĩa cộng sản tại Việt Nam do sự tương đồng giữa chủ nghĩa cộng sản và lý tưởng Đại đồng của Nho giáo. Ông dùng những từ ngữ, những mệnh đề của Khổng Tử vốn rất quen thuộc với truyền thống văn hoá Việt Nam để kết nối những giá trị chung trong học thuyết Nho giáo và học thuyết Marx. Trong bài Le Grand Confucius (Đức Khổng Tử vĩ đại) đăng trên tạp chí Communise số ra ngày 15/05/1921, Nguyễn Ái Quốc đã giới thiệu thuyết Đại đồng như sau: “Đức Khổng Tử vĩ đại (năm 551 trước Công nguyên) khởi xướng nền đại đồng và thuyết giáo quyền bình đẳng về của cải. Người nói tóm lại là: Nền hoà bình trên thế giới chỉ nảy nở từ nền Đại đồng trong thiên hạ. Người ta không sợ thiếu mà chỉ sợ không công bằng”.

Trong chiến tranh Việt Nam, ở miền Bắc buộc phải thực hiện chế độ phân phối thời chiến, Hồ Chí Minh đã từng nhắc nhở cán bộ về tư tưởng Khổng Tử: “Không sợ thiếu chỉ sợ không công bằng, không sợ đói chỉ sợ lòng dân không yên”.

Tổng kết 30 năm tiếp thu những dòng tư tưởng của mình, Hồ Chí Minh đúc rút :

“Học thuyết của Khổng Tử có ưu điểm là sự tu dưỡng đạo đức cá nhân. Tôn giáo Giêsu có ưu điểm là lòng nhân ái cao cả. Chủ nghĩa Marx có ưu điểm là phương pháp biện chứng. Chủ nghĩa Tôn Dật Tiên có ưu điểm là chính sách thích hợp với điều kiện của nước ta… Khổng Tử, Giêsu, Karl Marx, Tôn Dật Tiên chẳng phải có những điểm chung đó sao? Họ đều muốn mưu cầu hạnh phúc cho nhân loại, mưu cầu hạnh phúc cho xã hội. Nếu hôm nay, họ còn sống trên đời này, nếu họ ở một chỗ, tôi tin rằng họ nhất định chung sống với nhau rất tốt đẹp như những người bạn thân thiết. Tôi cố gắng làm người học trò nhỏ của họ.”[18]

Hồ Chí Minh đã được tiếp xúc với văn hóa truyền thống phương Tây từ lúc còn ngồi trên ghế nhà trường. Khi học ở trường tiểu học Vinh và Huế, những tư tưởng tân tiến của Đại cách mạng Pháp về “ tự do, bình đẳng, bác ái ” đã mở màn ảnh hưởng tác động can đảm và mạnh mẽ đến ông và là một trong những yếu tố ảnh hưởng tác động đến ông trong việc tìm hướng đi mới sang phương Tây để tìm đường cứu nước, cứu dân .

Ba mươi năm sống, lao động, học tập và hoạt động ở nước ngoài, đặc biệt là trong môi trường văn hóa phương Tây, ông đã có điều kiện để tìm hiểu, nghiên cứu và trực tiếp trải nghiệm qua các hoạt động chính trị, văn hóa, xã hội ở đây; đã trực tiếp tìm hiểu tư tưởng của các nhà khai sáng (Voltaire, Jean-Jacques Rousseau, Montesquieu..) qua các tác phẩm của họ. Ông đã tới Pháp, Mỹ, Anh và trực tiếp thấy được đời sống xã hội tại những nơi khởi nguồn của ba cuộc cách mạng dân tộc – dân chủ điển hình trên thế giới. Tư tưởng cách mạng tiến bộ của các cuộc cách mạng này đã tác động mạnh mẽ tới Hồ Chí Minh. Đó là những tư tưởng cơ bản của chủ nghĩa dân tộc và nhân văn trong cách mạng tư sản Mỹ và Pháp với quyền dân tộc, quyền con người và tư tưởng dân chủ mà nội dung của nó là tự do, bình đẳng, bác ái. Đây là những điểm mới về tư tưởng trong tinh hoa văn hóa phương Tây đã tác động mạnh mẽ tới suy nghĩ, hành động và tư tưởng của Hồ Chí Minh. Sống trong môi trường dân chủ và thông qua các hoạt động dân chủ trong làm việc, sinh hoạt ở các tổ chức lao động, xã hội và chính trị ở phương Tây, Hồ Chí Minh đã hiểu được các phương thức tổ chức xã hội dân chủ, cách làm việc dân chủ và hình thành phong cách dân chủ.

Chủ nghĩa Marx – Lenin

Hồ Chí Minh đã tiếp thu học thuyết giải phóng con người là chủ nghĩa Marx – Lenin. Khi tiếp đón chủ nghĩa Marx – Lenin, ông từ người yêu nước trở thành người cộng sản khi trở thành người tham gia sáng lập Đảng cộng sản Pháp .Đến với chủ nghĩa Marx – Lenin từ yên cầu của thực tiễn giải phóng dân tộc bản địa và con người, từ nhu yếu chung của quả đât về quyền dân tộc bản địa, quyền con người, Hồ Chí Minh đã vận dụng thế giới quan và phương pháp luận của chủ nghĩa Marx – Lenin để nghiên cứu và điều tra thực tiễn Nước Ta và quốc tế và tự tìm ra con đường của cách mạng Nước Ta. Vì vậy, chủ nghĩa Marx – Lenin chính là một nguồn gốc lý luận, là cơ sở hầu hết có vai trò quyết định hành động trong việc hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh và tư tưởng Hồ Chí Minh chính là sự vận dụng chủ nghĩa Marx – Lenin trong thực trạng của Nước Ta .

Cơ sở thực tiễn

Ở Nước Ta

Việt Nam có lịch sử và văn hiến lâu đời với truyền thống chống giặc ngoại xâm nhưng đến thế kỷ XIX, Việt Nam vẫn là một quốc gia lạc hậu, kém phát triển. Đến giữa thế kỷ XIX, trước sự suy yếu của chế độ phong kiến nhà Nguyễn, đế quốc Pháp bắt đầu tiến hành xâm lược Việt Nam. Sau khi đã hoàn thành về căn bản công cuộc bình định Việt Nam về mặt quân sự, thực dân Pháp bắt tay vào khai thác thuộc địa Việt Nam cũng như ở Lào và Campuchia một cách quy mô và từng bước biến Việt Nam từ một nước phong kiến thành nước thuộc địa, nửa phong kiến với những biến đổi căn bản về chính trị – kinh tế – văn hóa – xã hội. Sự biến đổi đó làm xuất hiện trong xã hội Việt Nam những giai tầng mới với sự ra đời của giai cấp công nhân, giai cấp tư sản và tầng lớp tiểu tư sản. Theo đó, bên cạnh mâu thuẫn cơ bản trong xã hội phong kiến là giữa nông dân với địa chủ phong kiến, sự xuất hiện các giai tầng mới đã làm nảy sinh thêm các mâu thuẫn mới: giữa giai cấp công nhân Việt Nam với giai cấp tư sản, giữa toàn thể nhân dân Việt Nam với chủ nghĩa đế quốc Pháp.

Trước những đổi khác trên, trào lưu cách mạng Nước Ta cũng từng bước có những tăng trưởng mới đó là sự Open của trào lưu yêu nước mới và trào lưu công nhân ở Nước Ta .

Đầu thế kỷ XX, trước ảnh hưởng của các cuộc vận động cải cách ở Trung Quốc của Khang Hữu Vi và Lương Khải Siêu, gương Duy Tân của Nhật Bản, cách mạng Tân Hợi ở Trung Quốc, phong trào yêu nước của Việt Nam chuyển sang xu hướng dân chủ tư sản với sự dẫn dắt của các sĩ phu yêu nước có tinh thần cải cách như Phan Bội Châu và Phan Châu Trinh. Điển hình như các phong trào Đông Du, phong trào Duy Tân, phong trào Đông kinh nghĩa thục… Nhưng tất cả những cố gắng cứu nước của trào lưu mới này ở Việt Nam đều bị thất bại bởi sự đàn áp của thực dân Pháp. Trường Đông kinh nghĩa thục bị đóng cửa (12-1907), phong trào chống thuế ở Trung Kỳ bị đàn áp (1908); vụ Hà Thành đầu độc thất bại (6-1908). Phong trào Đông Du bị tan rã, Phan Bội Châu và các đồng chí bị trục xuất khỏi nước Nhật (2-1909). Phong trào Duy Tân ở Trung Kỳ bị đàn áp, các thủ lĩnh như Trần Quý Cáp, Nguyễn Hằng Chi bị lên máy chém… Phan Châu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng, Ngô Đức Kế, Đặng Nguyên Cẩn bị đày ra Côn Đảo… Dù thất bại nhưng các phong trào yêu nước này đã nối tiếp nhau duy trì ngọn lửa cứu nước tiếp tục cháy trong lòng dân tộc.

Cùng với trào lưu đấu tranh yêu nước của nhân dân, sự sinh ra và trào lưu đấu tranh của giai cấp mới là giai cấp công nhân Nước Ta sau cuộc chiến tranh quốc tế lần thứ nhất đã làm cho trào lưu đấu tranh giải phóng dân tộc bản địa ở Nước Ta thêm những yếu tố mới. Đặc biệt, từ đầu những năm hai mươi của thế kỷ XX, giai cấp công nhân Nước Ta ngày càng đông lại chịu tác động ảnh hưởng của trào lưu cách mạng quốc tế đã làm trào lưu đấu tranh mang đặc trưng riêng của giai cấp công nhân càng được bộc lộ rõ nét. Đây là nguồn gốc thực tiễn xã hội cực kỳ quan trọng cho sự sinh ra của tư tưởng Hồ Chí Minh .Như vậy, trào lưu yêu nước và trào lưu công nhân Nước Ta là cơ sở thực tiễn trong nước cho sự sinh ra của tư tưởng Hồ Chí Minh .

Trên quốc tế

Vào cuối thế kỉ XIX, đầu thế kỉ XX, chủ nghĩa tư bản phương Tây chuyển từ giai đoạn tự do cạnh tranh sang chủ nghĩa tư bản độc quyền – giai đoạn đế quốc chủ nghĩa – đã chuyển từ mở thị trường buôn bán sang việc các nước đế quốc tiến hành tranh giành, đẩy mạnh xâm chiếm thuộc địa, nhằm khai thác nguyên liệu, bóc lột và nô dịch các dân tộc ở hầu hết các nước Á, Phi và Mỹ-latinh. Tình hình đó đã làm sâu sắc thêm mâu thuẫn vốn có trong lòng chủ nghĩa tư bản là mâu thuẫn giữa giai cấp tư sản với giai cấp vô sản ở các nước tư bản chủ nghĩa và mâu thuẫn giữa các nước tư bản, đế quốc với nhau và làm nảy sinh mâu thuẫn giữa nhân dân các dân tộc thuộc địa và phụ thuộc với chủ nghĩa đế quốc thực dân. Yêu cầu giải phóng, đem lại độc lập cho các dân tộc thuộc địa không chỉ là đòi hỏi riêng của các dân tộc thuộc địa mà còn là yêu cầu chung của các dân tộc đã thúc đẩy sự phát triển mạnh mẽ của phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới.    

Các mâu thuẫn của chủ nghĩa tư bản, chủ yếu là do tranh giành thị trường giữa các nước đế quốc, đã dẫn tới chiến tranh thế giới lần thứ nhất (8-1914 đến 11-1918) nhằm chia lại các khu vực ảnh hưởng làm xuất hiện phong trào của nhân dân thế giới đầu tranh đòi hòa bình, chấm dứt chiến tranh đế quốc và đó cũng là một trong những nguyên nhân bùng nổ Cách mạng Tháng Mười Nga. Thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười Nga, với sự ra đời của nhà nước công nông đầu tiên trên thế giới, đã mở ra thời đại mới, thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi quốc tế, đã cổ vũ và thúc đẩy sự phát triển của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới.

Thực tiễn của Cách mạng Tháng Mười, sự sinh ra của nhà nước Xô viết, trào lưu cách mạng quốc tế của giai cấp công nhân tăng trưởng với sự sinh ra và dẫn dắt của Quốc tế III cũng như trào lưu giải phóng dân tộc bản địa trên quốc tế là những nguồn gốc thực tiễn quốc tế cho sự hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh .

Quá trình hình thành và tăng trưởng

Tư tưởng Hồ Chí Minh không hình thành ngay một lúc mà đã trải qua một quá trình tìm tòi, xác lập, phát triển và hoàn thiện, gắn liền với quá trình hoạt động cách mạng phong phú của Hồ Chí Minh.[16] Có thể chia quá trình hoạt động cách mạng của Hồ Chí Minh thành 5 thời kỳ sau:[19]

  1. Thời kỳ hình thành tư tưởng yêu nước, thương nòi (trước năm 1911): thời kỳ này Hồ Chí Minh đã hình thành tư tưởng yêu nước, thương dân, tha thiết bảo vệ những giá trị tinh thần truyền thống của dân tộc, ham muốn học hỏi những tư tưởng tiến bộ của nhân loại.[19]
  2. Thời kỳ tìm tòi con đường cứu nước, giải phóng dân tộc (1911-1920): thời kỳ này Hồ Chí Minh tìm hiểu cuộc sống của những người lao động; đã khảo sát, tìm hiểu cuộc cách mạng Pháp, cách mạng Mỹ, tham gia Đảng Xã hội Pháp, tìm hiểu Cách mạng Tháng Mười Nga, học tập và đã tìm đến với chủ nghĩa Lenin, tham dự Đại hội Tua, đứng về phía Quốc tế cộng sản, tham gia sáng lập Đảng Cộng sản Pháp. Đây là thời kỳ Hồ Chí Minh đã có sự chuyển biến về tư tưởng; từ giác ngộ chủ nghĩa dân tộc tiến lên giác ngộ chủ nghĩa Marx – Lenin, từ một chiến sĩ chống thực dân phát triển thành một chiến sĩ cộng sản Việt Nam. Đây là một bước chuyển biến cơ bản về tư tưởng cứu nước của Hồ Chí Minh: “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản“.[19][20]
  3. Thời kỳ hình thành cơ bản tư tưởng về cách mạng Việt Nam (1921 – 1930): thời kỳ này Hồ Chí Minh đã có hoạt động thực tiễn và lý luận sôi nổi, phong phú ở Pháp (1921-1923), ở Liên Xô (1923-1924), ở Trung Quốc (1924-1927), ở Thái Lan (1928-1929)… Trong thời gian này, tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng Việt Nam đã hình thành cơ bản. Hồ Chí Minh đã kết hợp nghiên cứu xây dựng lý luận, kết hợp với tuyên truyền tư tưởng giải phóng dân tộc và vận động tổ chức quần chúng đấu tranh, xây dựng tổ chức cách mạng, chuẩn bị thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam. Các tác phẩm và bài viết của Hồ Chí Minh thời kỳ này đã thể hiện những quan điểm lớn về con đường cách mạng Việt Nam, có thể kể tên các tác phẩm như: Bản án chế độ thực dân Pháp (1925), Đường Kách mệnh (1927) và những bài viết khác.[19]
  4. Thời kỳ thử thách, kiên trì giữ vững quan điểm, nêu cao tư tưởng độc lập, tự do và quyền dân tộc cơ bản (1930-1945): trên cơ sở tư tưởng về con đường cách mạng Việt Nam đã hình thành về cơ bản, trong mấy năm đầu của những năm 1930, Hồ Chí Minh đã kiên trì giữ vững quan điểm cách mạng của mình, vượt qua khuynh hướng “tả” đang chi phối Quốc tế Cộng sản, chi phối Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, phát triển thành chiến lược cách mạng giải phóng dân tộc, xác lập tư tưởng độc lập, tự do, dẫn đến thắng lợi của cuộc Cách mạng Tháng Tám năm 1945, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã ra đời.[19]
  5. Thời kỳ tiếp tục phát triển mới về tư tưởng kháng chiến và kiến quốc (1945-1969): đây là thời kỳ Hồ Chí Minh cùng Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo nhân dân Việt Nam vừa tiến hành cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, vừa xây dựng chế độ dân chủ nhân dân (1945 – 1954) mà đỉnh cao là chiến thắng Điện Biên Phủ; tiến hành cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc. Thời kỳ này nổi bật là các nội dung như: Tư tưởng kết hợp kháng chiến với kiến quốc; tiến hành đồng thời hai chiến lược cách mạng khác nhau, đó là cách mạng giải phóng dân tộc ở miền Nam và cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc nhằm một mục tiêu chung trước mắt là giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc. Tư tưởng chiến tranh nhân dân, toàn dân, toàn diện, lâu dài, dựa vào sức mình là chính. Xây dựng quyền làm chủ của nhân dân, xây dựng Nhà nước của dân, do dân, vì dân. Xây dựng Đảng Cộng sản với tư cách là một Đảng cầm quyền…[19]

Định nghĩa

Tư tưởng Hồ Chí Minh được Đảng Cộng sản Việt Nam định nghĩa:

Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, là kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế thừa và phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu văn hoá nhân loại…[21]

Định nghĩa trên là một bước tiến mới trong nhận thức của Đảng Cộng sản Việt Nam về tư tưởng Hồ Chí Minh, làm khuynh hướng cho những nhà nghiên cứu liên tục đi sâu khám phá về tư tưởng của Hồ Chí Minh, đặc biệt quan trọng là xác lập nội dung giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh với tư cách là nền tảng tư tưởng và mục tiêu hành vi cho toàn Đảng Cộng sản Việt Nam, toàn dân tộc bản địa Nước Ta. [ 22 ] Tư tưởng Hồ Chí Minh là bộ phận TT của chuyên ngành ” Hồ Chí Minh học ” thuộc ngành Khoa học chính trị Nước Ta. Hồ Chí Minh đã kiến thiết xây dựng được mạng lưới hệ thống lý luận tổng lực về cách mạng Nước Ta tương thích với thực tiễn của quốc gia và dòng chảy thời đại. Hệ thống đó gồm có một số ít nội dung cơ bản sau : [ 22 ]

  • Giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người;
  • Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại;
  • Sức mạnh của nhân dân, của khối đại đoàn kết dân tộc;
  • Quyền làm chủ của nhân dân, xây dựng Nhà nước thật sự của dân, do dân, vì dân;
  • Quốc phòng toàn dân, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân;
  • Phát triển kinh tế và văn hóa, không ngừng nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân;
  • Đạo đức cách mạng cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư;
  • Chăm lo bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau;
  • Xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, cán bộ, đảng viên vừa là người lãnh đạo, vừa là người đày tớ trung thành của nhân dân…[22][23]

Nghiên cứu, giảng dạy và học tập

Giáo trình Tư tưởng Hồ Chí Minh do Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia xuất bản

Hoạt động điều tra và nghiên cứu, giảng dạy và học tập

Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng cộng sản Việt Nam diễn ra năm 1991 tại Hà Nội đã xác định: lấy chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động, lấy tập trung dân chủ làm nguyên tắc tổ chức cơ bản.[24]

Từ đây Tư tưởng Hồ Chí Minh được đưa vào giảng dạy trong toàn bộ trường ĐH như một bộ môn bắt buộc so với tổng thể những sinh viên thuộc mọi ngành học. Những lớp tập huấn – đồng thời tranh luận giữa những chuyên viên – chính thức cho môn học này mở màn từ năm 1997 tại Trường Đại học Tổng hợp TP. Hà Nội .

Các nhà nghiên cứu trong nước và những đồng chí của Hồ Chí Minh đã viết nhiều tác phẩm về Tư tưởng Hồ Chí Minh như Tìm hiểu một số vấn đề trong tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh (1982) do Lê Mậu Hãn chủ biên; Nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh (1993) của tập thể tác giả Viện Hồ Chí Minh; Thế giới còn đổi thay nhưng tư tưởng Hồ Chí Minh sống mãi (1991), Về tư tưởng Hồ Chí Minh (1993), Tư tưởng Hồ Chí Minh quá trình hình thành và phát triển (1993), Tư tưởng Hồ Chí Minh và con đường cách mạng Việt Nam (1997) của Võ Nguyên Giáp; Những nhận thức cơ bản về tư tưởng Hồ Chí Minh (1998) của Phạm Văn Đồng; Sự hình thành về căn bản tư tưởng Hồ Chí Minh (1997) của Trần Văn Giàu; Từ tư duy truyền thống đến tư tưởng Hồ Chí Minh (1998) của Hoàng Tùng.[25]

Ý nghĩa của việc điều tra và nghiên cứu và học tập

Mục đích nghiên cứu học tập Tư tưởng Hồ Chí Minh là nhằm áp dụng vào con đường xây dựng đất nước Việt Nam vì mục tiêu: dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.[26] Đối với thế hệ trẻ nói chung, với học sinh, sinh viên trong các trường cao đẳng và đại học nói riêng, Đảng và Nhà nước Việt Nam nhấn mạnh cần đặc biệt coi trọng giáo dục chính trị, tư tưởng, đạo đức cách mạng, đặc biệt là giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh nhằm nâng cao lý luận, phương pháp tư duy biện chứng, góp phần đào tạo sinh viên thành những chiến sĩ đi tiên phong trong công cuộc bảo vệ và xây dựng đất nước Việt Nam đàng hoàng hơn và to đẹp hơn như Di chúc của Hồ Chí Minh để lại: “Đoàn viên và thanh niên ta nói chung là tốt, mọi việc đều hăng hái xung phong, không ngại khó khăn, có chí tiến thủ. Đảng cần phải chăm lo giáo dục đạo đức cách mạng cho họ, đào tạo họ thành những người thừa kế xây dựng chủ nghĩa xã hội vừa “hồng” vừa “chuyên”. Bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau là một việc rất quan trọng và rất cần thiết“.[26][27]

Chính sách khuyễn mãi thêm của Nhà nước

Hiện nay bộ môn Tư tưởng Hồ Chí Minh tại những trường ĐH đang thiếu giáo viên nhưng ngành Tư tưởng Hồ Chí Minh lại có số lượng thí sinh ĐK dự thi ít, tỷ suất chọi và điểm chuẩn thấp so với những ngành còn lại. [ 28 ] Do đó nhà nước Nước Ta có Nghị định 74 miễn, giảm học phí, tương hỗ ngân sách học tập trong những cơ sở giáo dục quốc dân cho 1 số ít đối tượng người dùng học viên, sinh viên ; trong đó sinh viên chuyên ngành Mác – Lênin và Tư tưởng Hồ Chí Minh được miễn học phí. [ 29 ] Mặc dù có miễn giảm học phí, nhưng chuyên ngành Tư tưởng Hồ Chí Minh vẫn không phải lựa chọn của nhiều sinh viên. [ 30 ]

Nội dung cơ bản

Về yếu tố dân tộc bản địa và cách mạng giải phóng dân tộc bản địa

Về yếu tố dân tộc bản địa

Dân tộc là một yếu tố to lớn. Karl Marx, Friedrich Engels không đi sâu xử lý yếu tố dân tộc bản địa, vì thời đó ở Tây Âu yếu tố dân tộc bản địa đã được xử lý trong cách mạng tư sản ; hơn nữa, những ông chưa có điều kiện kèm theo nghiên cứu và điều tra sâu về yếu tố dân tộc bản địa thuộc địa ở châu Á, châu Phi và châu Mỹ La-tinh. [ 31 ]Trong quá trình đế quốc chủ nghĩa ( cuối thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20 ), cách mạng giải phóng dân tộc bản địa trở thành một bộ phận của cách mạng vô sản quốc tế, [ 32 ] nhờ đó V.I. Lênin có cơ sở thực tiễn để tăng trưởng yếu tố dân tộc bản địa thuộc địa thành một mạng lưới hệ thống lý luận. Tuy cả C. Mác, Ph. Ăngghen và V.I. Lênin đã nêu lên những quan điểm cơ bản về mối quan hệ biện chứng giữa yếu tố dân tộc bản địa và yếu tố giai cấp, tạo cơ sở lý luận và phương pháp luận cho việc xác lập kế hoạch, sách lược của những Đảng Cộng sản về yếu tố dân tộc bản địa và thuộc địa, nhưng từ thực tiễn cách mạng vô sản ở châu Âu, những ông vẫn tập trung chuyên sâu nhiều hơn vào yếu tố giai cấp. Điều kiện những năm đầu thế kỷ XX trở đi đặt ra nhu yếu cần vận dụng và tăng trưởng phát minh sáng tạo lý luận Mác – Lênin cho tương thích với thực tiễn ở những nước thuộc địa trong đó có Nước Ta ; chính Hồ Chí Minh là người đã phân phối nhu yếu đó. [ 31 ]Ngày 19 tháng 6 năm 1919, thay mặt đại diện Hội những người An Nam yêu nước, Hồ Chí Minh đã mang tới Hội nghị Hòa bình Versailles bản Yêu sách của nhân dân An Nam gồm 8 điểm để lôi kéo chỉ huy những nước Đồng Minh vận dụng những lý tưởng của Tổng thống Hoa Kỳ Woodrow Wilson cho những chủ quyền lãnh thổ thuộc địa của Pháp ở Khu vực Đông Nam Á, trao tận nơi tổng thống Pháp và những đoàn đại biểu đến dự hội nghị. [ 33 ] Quan điểm của Hồ Chí Minh về yếu tố dân tộc bản địa chịu ảnh hưởng tác động của lý luận Mác-Lênin, đặc biệt quan trọng là lý luận của Lênin về yếu tố dân tộc bản địa và thuộc địa

Báo L’Humanité số ra hai ngày 16 và 17-7-1920 đăng toàn văn bản “Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa” của V.I.Lênin dưới đầu đề chạy suốt trang một. Luận cương lập tức thu hút sự chú ý đặc biệt của Nguyễn Ái Quốc. Nguyễn Ái Quốc đã đọc đi đọc lại nhiều lần và “qua lăng kính chủ nghĩa yêu nước chân chính, Người tìm thấy ở đó con đường đi đúng đắn giải phóng đất nước khỏi ách thực dân”.[13] Sau này Nguyễn Ái Quốc nhớ lại: “Trong Luận cương ấy, có những chữ chính trị khó hiểu. Nhưng cứ đọc đi đọc lại nhiều lần, cuối cùng tôi cũng hiểu được phần chính. Luận cương của Lênin làm cho tôi rất cảm động, phấn khởi, sáng tỏ, tin tưởng biết bao! Tôi vui mừng đến phát khóc lên. Ngồi một mình trong buồng mà tôi nói to lên như đang nói trước quần chúng đông đảo: “Hỡi đồng bào bị đoạ đầy đau khổ! Đây là cái cần thiết cho chúng ta, đây là con đường giải phóng chúng ta!”.[34] Từ đó Nguyễn Ái Quốc (Hồ Chí Minh) hoàn toàn tin theo Lênin, tin theo Quốc tế thứ ba.[13]

Hồ Chí Minh đã tiếp thu những lý luận của Chủ nghĩa Mác-Lênin về yếu tố dân tộc bản địa, đồng thời Hồ Chí Minh đã vận dụng phát minh sáng tạo lý luận của Chủ nghĩa Mác-Lênin cho tương thích với thực tiễn ở những nước thuộc địa, trong đó có Nước Ta. Tư tưởng Hồ Chí Minh về yếu tố dân tộc bản địa biểu lộ ở những điểm chính sau :

  • Độc lập, tự do là quyền thiêng liêng bất khả xâm phạm của các dân tộc. Hồ Chí Minh viết trong Bản Tuyên ngôn Độc lập khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa: “Tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra có quyền bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do“.[35] Mục đích của việc dành độc lập dân tộc là đem lại hạnh phúc, tự do cho nhân dân. Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng “Ngày nay chúng ta đã xây dựng nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Nhưng nếu nước độc lập mà dân không hưởng hạnh phúc tự do, thì độc lập cũng chẳng có ý nghĩa gì“.[36]
  • Chủ nghĩa yêu nước và tinh thần dân tộc là một động lực to lớn của đất nước. Hồ Chí Minh đã từng nhận xét: “Dân ta có một lòng nồng nàn yêu nước. Đó là một truyền thống quý báu của ta. Từ xưa đến nay, mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng, thì tinh thần ấy lại sôi nổi, nó kết thành một làn sóng vô cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi sự nguy hiểm, khó khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán nước và lũ cướp nước”[37]
  • Kết hợp nhuần nhuyễn dân tộc với giai cấp, độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa yêu nước với chủ nghĩa quốc tế: “Các dân tộc ở đó (ở phương Đông) không bao giờ có thể ngẩng đầu lên được nếu không gắn bó với giai cấp vô sản thế giới… Ngày mà hàng trăm triệu người châu Á bị nô dịch và áp bức sẽ thức tỉnh để gạt bỏ sự bóc lột đê tiện của một nhóm bọn thực dân tham tàn và chính họ sẽ hình thành được một lực lượng đồ sộ vừa có thể thủ tiêu một trong những điều kiện tồn tại của chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa đế quốc, vừa giúp đỡ những người anh em phương tây trong sự nghiệp giải phóng”[38]

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trả lời quả quyết và phủ nhận quan điểm cho rằng mình theo chủ nghĩa dân tộc: Nói rằng lúc còn thanh niên, tôi theo chủ nghĩa dân tộc, có lẽ không đúng. Vì hồi đó tôi chỉ biết thương đồng bào tôi, chứ chưa biết chủ nghĩa gì cả. Khi đi sang châu Phi, tôi thấy nhân dân thuộc địa ở đây cũng cực khổ, cũng bị áp bức, bóc lột như nhân dân Đông Dương. Khi sang các nước châu Âu, tôi thấy ở đó cũng có một số người rất giàu, “ngồi mát ăn bát vàng”, và lớp người nhân dân lao động rất nghèo khổ. Tôi suy nghĩ nhiều lắm. Trong lúc đó thì Cách mạng Tháng Mười vĩ đại thành công ở Nga. Lênin tổ chức Quốc tế Cộng sản. Rồi Lênin phát biểu Luận cương cách mạng thuộc địa. Những việc đó làm cho tôi thấy rằng: Nhân dân lao động Đông Dương, nhân dân các thuộc địa và nhân dân lao động muốn tự giải phóng thì phải đoàn kết lại và làm cách mạng. Vì vậy, tôi trở nên người theo Chủ nghĩa Mác-Lênin, chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức và những người lao động trên thế giới khỏi ách nô lệ“.[39][40] Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội chính là luận điểm trung tâm, nội dung cốt lõi trong tư tưởng Hồ Chí Minh. Hồ Chí Minh chủ trương sách lược chống đế quốc “Phát động chủ nghĩa dân tộc bản xứ nhân danh Quốc tế Cộng sản… Khi chủ nghĩa dân tộc của họ thắng lợi… nhất định chủ nghĩa dân tộc ấy sẽ biến thành chủ nghĩa quốc tế“.[41] Nói về giải phóng dân tộc và giải phóng giai cấp, Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Cả hai cuộc giải phóng này chỉ có thể là sự nghiệp của chủ nghĩa cộng sản và của cách mạng thế giới”, “chỉ có chủ nghĩa cộng sản mới cứu nhân loại, đem lại cho mọi người không phân biệt chủng tộc và nguồn gốc sự tự do, bình đẳng, bác ái, đoàn kết, ấm no trên quả đất, việc làm cho mọi người, và vì mọi người, niềm vui, hòa bình, hạnh phúc“.[42]

Về cách mạng giải phóng dân tộc bản địa

Thất bại của những trào lưu yêu nước chống thực dân Pháp ở Nước Ta cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX chứng tỏ rằng, những con đường giải phóng dân tộc bản địa dưới ngọn cờ tư tưởng phong kiến hoặc tư tưởng tư sản đã không cung ứng được nhu yếu khách quan là giành độc lập, tự do của dân tộc bản địa do lịch sử vẻ vang đặt ra. Hồ Chí Minh rất khâm phục ý thức cứu nước của những nhà cách mạng tiền bối, nhưng ông không đống ý những con đường cứu nước ấy, mà quyết tâm ra đi tìm một con đường cứu nước mới. [ 43 ]Sau khi tiếp cận lý luận của Lênin, Hồ Chí Minh đã tìm thấy con đường cứu nước, đó là con đường cách mạng vô sản. Như vậy là, Hồ Chí Minh đã đến với học thuyết cách mạng của chủ nghĩa Mác – Lênin và lựa chọn con đường cách mạng vô sản. Từ đó, Hồ Chí Minh quyết tâm đưa dân tộc bản địa Nước Ta đi theo con đường đó. [ 43 ]Tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân tộc bản địa biểu lộ ở những điểm chính sau :

  • Cách mạng giải phóng dân tộc muốn thắng lợi phải đi theo con đường cách mạng vô sản. Con đường cách mạng vô sản, theo quan điểm của Hồ Chí Minh, bao hàm những nội dung chủ yếu sau:
    • Tiến hành cách mạng giải phóng dân tộc và dần dần từng bước “đi tới xã hội cộng sản”.
    • Lực lượng lãnh đạo cách mạng là giai cấp công nhân mà đội tiền phong của nó là Đảng Cộng sản.
    • Lực lượng cách mạng là khối đoàn kết toàn dân, nòng cốt là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và lao động trí óc.
    • Sự nghiệp cách mạng của Việt Nam là một bộ phận khăng khít của cách mạng thế giới, cho nên phải đoàn kết quốc tế.[43]
  • Cách mạng giải phóng dân tộc trong thời đại mới phải do Đảng Cộng sản lãnh đạo. Hồ Chí Minh khẳng định: Muốn giải phóng dân tộc thành công trước hết phải có đảng cách mệnh. Ông phân tích: cách mệnh trước phải làm cho dân giác ngộ, phải giảng giải lý luận và chủ nghĩa cho dân hiểu, phải hiểu phong triều thế giới, phải bày sách lược cho dân… Vậy nên sức cách mệnh phải tập trung, muốn tập trung phải có đảng cách mệnh.[44]
  • Lực lượng của cách mạng giải phóng dân tộc bao gồm toàn dân tộc. Hồ Chí Minh đánh giá rất cao vai trò của nhân dân trong khởi nghĩa vũ trang. Ông coi sức mạnh vĩ đại và năng lực sáng tạo vô tận của quần chúng là then chốt bảo đảm thắng lợi.
  • Cách mạng giải phóng dân tộc cần được tiến hành chủ động, sáng tạo và có khả năng giành thắng lợi trước cách mạng vô sản ở chính quốc. Các nhà nghiên cứu trong nước đánh giá, đây là một luận điểm sáng tạo, có giá trị lý luận và thực tiễn to lớn; một cống hiến rất quan trọng của Hồ Chí Minh vào kho tàng lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin, đã được thắng lợi của phong trào cách mạng giải phóng dân tộc trên toàn thế giới trong gần một thế kỷ qua chứng minh là hoàn toàn đúng đắn.[45]
  • Cách mạng giải phóng dân tộc phải được tiến hành bằng con đường cách mạng bạo lực. Trong đó có hai vấn đề:
    • Bạo lực cách mạng trong cách mạng giải phóng dân tộc ở Việt Nam. Tư tưởng bạo lực cách mạng và tư tưởng nhân đạo hòa bình thống nhất biện chứng với nhau trong tư tưởng Hồ Chí Minh. Ông chủ trương, yêu nước, thương dân, yêu thương con người, yêu chuộng hòa bình, tự do, công lý, tranh thủ mọi khả năng hòa bình để giải quyết xung đột, nhưng một khi không thể tránh khỏi chiến tranh thì phải kiên quyết tiến hành chiến tranh, kiên quyết dùng bạo lực cách mạng, dùng khởi nghĩa và chiến tranh cách mạng để giành, giữ và bảo vệ hòa bình, vì độc lập tự do.[46]
    • Phương châm chiến lược đánh lâu dài trong cách mạng giải phóng dân tộc. Trước những kẻ thù lớn mạnh, Hồ Chí Minh chủ trương sử dụng phương châm chiến lược đánh lâu dài. Hồ Chí Minh nói, muốn thắng lợi phải trường kỳ gian khổ, muốn trường kỳ phải tự lực cánh sinh. Mặc dù rất coi trọng sự giúp đỡ quốc tế nhưng Hồ Chí Minh luôn đề cao sức mạnh bên trong, phát huy đến mức cao nhất mọi nỗ lực của dân tộc, đề cao tinh thần độc lập tự chủ. Độc lập tự chủ, tự lực tự cường kết hợp với tranh thủ sự giúp đỡ quốc tế là một quan điểm nhất quán trong tư tưởng Hồ Chí Minh. Trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, ông đã động viên sức mạnh của toàn dân tộc, đồng thời ra sức vận động, tranh thủ sự giúp đỡ quốc tế to lớn và có hiệu quả, cả về vật chất và tinh thần, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại để kháng chiến thắng lợi.[46]

Về chủ nghĩa xã hội và con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Nước Ta

Về thực chất và tiềm năng của chủ nghĩa xã hội

Tuyên truyền cho cuộc vận động “Học theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”Hầu hết những cách tiếp cận, định nghĩa của Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội được diễn đạt, trình diễn một cách dung dị, mộc mạc, dễ hiểu và mang tính đại trà phổ thông, đại chúng. Hồ Chí Minh ý niệm nâng cao đời sống vật chất và ý thức của người dân chính là chủ nghĩa xã hội chứ ông không lý luận nhiều về việc nhà nước phải trấn áp tư liệu sản xuất .

Mục đích của chủ nghĩa xã hội là gì? Nói một cách đơn giản và dễ hiểu là: không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, trước hết là nhân dân lao động” [47]
Mục đích của chủ nghĩa xã hội là không ngừng nâng cao mức sống của nhân dân“[47]
Chủ nghĩa xã hội là làm sao cho nhân dân đủ ăn, đủ mặc, ngày càng sung sướng, ai nấy được đi học, ốm đau có thuốc, già không lao động được thì nghỉ, những phong tục tập quán không tốt dần dần được xóa bỏ… Tóm lại, xã hội ngày càng tiến, vật chất ngày càng tăng, tinh thần ngày càng tốt, đó là chủ nghĩa xã hội” [47]

Theo Giáo trình tư tưởng Hồ Chí Minh, một số ít định nghĩa cơ bản mà Hồ Chí Minh đã đề cập về chủ nghĩa xã hội : [ 48 ]

Định nghĩa tổng quát, xem xét chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản như là một chế độ xã hội hoàn chỉnh, bao gồm nhiều mặt khác nhau của đời sống, là con đường giải phóng nhân loại cần lao, áp bức.

Định nghĩa chủ nghĩa xã hội bằng cách chỉ ra một mặt nào đó của nó (kinh tế, chính trị, văn hóa…).

Định nghĩa bằng cách xác định mục tiêu của chủ nghĩa xã hội, chỉ rõ phương hướng, phương tiện để đạt được mục tiêu đó.

Định nghĩa chủ nghĩa xã hội bằng cách xác định động lực xây dựng nó: “Chủ nghĩa xã hội là nhằm nâng cao đời sống vật chất và văn hóa của nhân dân và do nhân dân tự xây dựng lấy”.[48]

Về con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Nước Ta

C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I. Lênin đều khẳng định tính tất yếu khách quan của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội và chỉ rõ vị trí lịch sử, nhiệm vụ đặc thù của nó trong quá trình vận động, phát triển của hình thái kinh tế – xã hội cộng sản chủ nghĩa. Theo quan điểm của các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác – Lênin, thì có hai con đường quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội. Con đường thứ nhất là con đường quá độ trực tiếp lên chủ nghĩa xã hội từ những nước tư bản phát triển ở trình độ cao.[49] Marx cho rằng chủ nghĩa cộng sản là một bước tiến hóa của xã hội loài người dựa trên những điều kiện kinh tế – xã hội do chủ nghĩa tư bản tạo ra chứ không phải là kết quả của việc áp đặt một mô hình kinh tế – chính trị lên xã hội. Theo ông “Đối với chúng ta, chủ nghĩa cộng sản không phải là một trạng thái cần phải sáng tạo ra, không phải là một lý tưởng mà hiện thực phải khuôn theo. Chúng ta gọi chủ nghĩa cộng sản là một phong trào hiện thực, nó xóa bỏ trạng thái hiện nay. Những điều kiện của phong trào ấy là kết quả của những tiền đề hiện đang tồn tại[50]”. Con đường thứ hai là quá độ gián tiếp lên chủ nghĩa xã hội ở những nước chủ nghĩa tư bản phát triển còn thấp hoặc các nước tiền tư bản với sự giúp đỡ của các nước xã hội chủ nghĩa.[49] Đây là quan điểm của Lenin và Stalin.

Trên cơ sở vận dụng lý luận về cách mạng không ngừng, về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội của chủ nghĩa Mác – Lênin và xuất phát từ đặc điểm tình hình thực tế của Việt Nam, Hồ Chí Minh đã khẳng định con đường cách mạng Việt Nam là tiến hành giải phóng dân tộc, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, tiến dần lên chủ nghĩa xã hội.[49] Ta có thể rút gọn lại nội dung về con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam của Hồ Chí Minh được thể hiện qua các điểm chính sau:

  • Phải thực hiện cách mạng giải phóng dân tộc trước, sau đó mới từng bước xây dựng chủ nghĩa xã hội.[49]
  • Con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam phải đi lên bằng con đường gián tiếp.[49]

Theo Hồ Chí Minh, khi bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Nước Ta có đặc thù lớn nhất là từ một nước nông nghiệp lạc hậu tiến lên chủ nghĩa xã hội không phải kinh qua quá trình tăng trưởng tư bản chủ nghĩa. Đặc điểm này chi phối những đặc thù khác, biểu lộ trong tổng thể những nghành nghề dịch vụ của đời sống xã hội và làm cơ sở phát sinh nhiều xích míc. Trong đó, Hồ Chí Minh đặc biệt quan trọng chú ý quan tâm đến xích míc cơ bản của thời kỳ quá độ, đó là xích míc giữa nhu yếu tăng trưởng cao của quốc gia theo xu thế văn minh và tình hình kinh tế tài chính – xã hội quá thấp kém của Nước Ta. [ 49 ] Chính cho nên vì thế thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa xã hội là một cuộc đấu tranh cách mạng phức tạp, khó khăn và lâu bền hơn. [ 51 ] [ 52 ] Trong cuộc đấu tranh này, toàn xã hội phải nỗ lực dưới sự chỉ huy của Đảng Cộng sản Việt Nam, đồng thời phải học tập kinh nghiệm tay nghề thiết kế xây dựng Chủ nghĩa xã hội và tận dụng mọi sự giúp sức của những nước xã hội chủ nghĩa tiên tiến và phát triển như Liên Xô và những nước Đông Âu. [ 53 ]

Nhiệm vụ lịch sử của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.

Theo Hồ Chí Minh, thực ra của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Nước Ta là quy trình cải biến nền sản xuất lỗi thời thành nền sản xuất tân tiến. Do những đặc thù và đặc thù lao lý, quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Nước Ta là một quy trình từ từ, khó khăn vất vả, phức tạp và lâu dài hơn. Nhiệm vụ lịch sử vẻ vang của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Nước Ta gồm có hai nội dung lớn : [ 49 ] [ 54 ]

  • Một là, xây dựng nền tảng vật chất và kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội, xây dựng các tiền đề về kinh tế, chính trị, văn hóa, tư tưởng cho chủ nghĩa xã hội.[49][54]
  • Hai là, cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới, kết hợp cải tạo và xây dựng, trong đó lấy xây dựng làm trọng tâm, làm nội dung cốt yếu nhất, chủ chốt, lâu dài.[49][54]

Hồ Chí Minh nhấn mạnh vấn đề đến đặc thù tuần tự, từ từ của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Tính chất phức tạp và khó khăn vất vả của nó được Hồ Chí Minh lý giải trên những điểm sau : [ 49 ]

  • Thứ nhất, đây thực sự là một cuộc cách mạng làm đảo lộn mọi mặt đời sống xã hội, cả lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, cả cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng. Nó đặt ra và đòi hỏi đồng thời giải quyết hàng loạt mâu thuẫn khác nhau.
  • Thứ hai, trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, Đảng, Nhà nước và nhân dân ta chưa có kinh nghiệm, nhất là trên lĩnh vực kinh tế. Đây là công việc hết sức mới mẻ đối với Đảng ta, nên phải vừa làm, vừa học và có thể có vấp váp và thiếu sót. Xây dựng xã hội mới bao giờ cũng khó khăn, phức tạp hơn đánh đổ xã hội cũ đã lỗi thời.
  • Thứ ba, sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta luôn luôn bị các thế lực phản động trong và ngoài nước tìm cách chống phá.[49]
Quan điểm Hồ Chí Minh về nội dung xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam trong thời kỳ quá độ.
  • Chính trị: giữ vững và phát huy vai trò lãnh đạo của Đảng. Củng cố và mở rộng Mặt trận dân tộc thống nhất, nòng cốt là liên minh công nhân, nông dân và trí thức, do Đảng cộng sản lãnh đạo; củng cố và tăng cường sức mạnh toàn bộ hệ thống chính trị cũng như từng thành tố của nó.[55]
  • Kinh tế: nhấn mạnh việc tăng năng suất lao động trên cơ sở tiến hành công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa. Lấy nông nghiệp làm mặt trận hàng đầu, củng cố hệ thống thương nghiệp làm cầu nối giữa các ngành sản xuất xã hội. Phát triển thành phần kinh tế quốc doanh để tạo nền tảng vật chất cho chủ nghĩa xã hội và thúc đẩy việc cải tạo xã hội chủ nghĩa. Năm 1953, trong tác phẩm Thường thức chính trị, Hồ Chí Minh chỉ ra 6 thành phần kinh tế ở vùng kháng chiến, để xây dựng và phát triển nền kinh tế có nhiều thành phần như trên, Hồ Chí Minh đưa ra chính sách kinh tế của Đảng và Chính phủ gồm bốn điểm mấu chốt: Một là, công tư đều lợi; Hai là, chủ thợ đều lợi; Ba là, công nông giúp nhau; Bốn là Lưu thông trong ngoài. Kinh tế quốc doanh là công. Nó là nền tảng và sức lãnh đạo của kinh tế dân chủ mới. Cho nên chúng ta phải ra sức phát triển nó và nhân dân ta phải ủng hộ nó. Đối với những người phá hoại nó, trộm cắp của công, khai gian lậu thuế thì phải trừng trị. Tư là những nhà tư bản dân tộc và kinh tế cá nhân của nông dân và thủ công nghệ, nên Chính phủ cần giúp họ phát triển. Nhưng họ phải phục tùng sự lãnh đạo của kinh tế quốc gia, phải hợp với lợi ích của đại đa số nhân dân,[56] đến năm 1959 ông chủ trương vẫn cho phép những nhà tư sản công thương sở hữu tư liệu sản xuất, tiến dần đến việc xóa bỏ các hình thức sở hữu không xã hội chủ nghĩa bằng cách khuyến khích những người làm nghề thủ công và lao động riêng lẻ tổ chức hợp tác xã theo nguyên tắc tự nguyện, khuyến khích và giúp đỡ những nhà tư sản công thương cải tạo theo chủ nghĩa xã hội bằng hình thức công tư hợp doanh và những hình thức cải tạo khác.[57] Có quan điểm cho rằng Hồ Chí Minh là người đầu tiên chủ trương phát triển cơ cấu kinh tế nhiều thành phần trong suốt thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội tại Việt Nam.[58][59][60]
Trong nước ta hiện nay, có những hình thức sở hữu chính về tư liệu sản xuất như sau:

– Sở hữu của Nhà nước, tức là sở hữu của toàn dân.
– Sở hữu của hợp tác xã, tức là sở hữu tập thể của nhân dân lao động.
– Sở hữu của người lao động riêng lẻ.
– Một số ít tư liệu sản xuất thuộc sở hữu của các nhà tư bản.
— Hồ Chí Minh, Báo cáo về dự thảo sửa đổi Hiến pháp của ông tại Kỳ họp thứ 11, Quốc hội nước Việt Nam dân chủ cộng hòa khóa 1 ngày 18 tháng 12 năm 1959 tại Hà Nội.[57]
Mục đích của chế độ ta là xoá bỏ các hình thức sở hữu không xã hội chủ nghĩa, làm cho nền kinh tế gồm nhiều thành phần phức tạp trở nên một nền kinh tế thuần nhất, dựa trên chế độ sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể.
— Hồ Chí Minh. Tài liệu đã dẫn[57]
Chúng ta phải phát triển thành phần kinh tế quốc doanh để tạo nền tảng vật chất cho chủ nghĩa xã hội và thúc đẩy việc cải tạo xã hội chủ nghĩa.
— Hồ Chí Minh. Tài liệu đã dẫn[57]
Đối với những người lao động cá thể và các nhà tư bản, cũng tại báo cáo nói trên, Hồ Chí Minh viết:
– Đối với những người làm nghề thủ công và lao động riêng lẻ khác, Nhà nước bảo hộ quyền sở hữu về tư liệu sản xuất của họ, ra sức hướng dẫn và giúp đỡ họ cải tiến cách làm ăn, khuyến khích họ tổ chức hợp tác xã theo nguyên tắc tự nguyện.

Đối với những nhà tư sản công thương, Nhà nước không xóa bỏ quyền sở hữu về tư liệu sản xuất và của cải khác của họ mà ra sức hướng dẫn họ hoạt động nhằm làm lợi cho quốc kế dân sinh, phù hợp với kế hoạch kinh tế của Nhà nước. Đồng thời Nhà nước khuyến khích và giúp đỡ họ cải tạo theo chủ nghĩa xã hội bằng hình thức công tư hợp doanh và những hình thức cải tạo khác.

— Hồ Chí Minh. Báo cáo sửa đổi Hiến pháp 1959.Hồ Chí Minh. Tài liệu đã dẫn[61]
  • Văn hóa – xã hội: nhấn mạnh vấn đề xây dựng con người mới.[55]

Về đại đoàn kết dân tộc bản địa, tích hợp sức mạnh dân tộc bản địa với sức mạnh thời đại

Về đại đoàn kết dân tộc bản địa

Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc bản địa được hình thành từ những cơ sở quan trọng sau đây :

  • Thứ nhất là truyền thống yêu nước, nhân ái, tinh thần cố kết cộng đồng của dân tộc Việt Nam. Đây là cơ sở đầu tiên, sâu xa cho sự hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc.
  • Thứ hai là quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin coi cách mạng là sự nghiệp của quần chúng. Chủ nghĩa Mác – Lênin cho rằng, cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, nhân dân là người sáng tạo ra lịch sử; giai cấp vô sản muốn thực hiện được vai trò lãnh đạo cách mạng phải trở thành dân tộc; liên minh công nông là cơ sở để xây dựng lực lượng to lớn của cách mạng. Đó là những quan điểm lý luận hết sức cần thiết để Hồ Chí Minh có cơ sở khoa học trong sự đánh giá chính xác yếu tố tích cực cũng như những hạn chế trong các di sản truyền thống, trong tư tưởng tập hợp lực lượng của các nhà yêu nước Việt Nam tiền bối và các nhà cách mạng lớn trên thế giới, từ đó hình thành tư tưởng của Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc.
  • Thứ ba là tổng kết những kinh nghiệm thành công và thất bại của các phong trào cách mạng Việt Nam và thế giới.

Trước Cách mạng tháng 8, khác với những lãnh tụ Đảng Cộng sản khác ở Nước Ta luôn coi liên minh công nông là lực lượng nòng cốt, chủ chốt của cách mạng vô sản, coi nhẹ tiềm năng cách mạng của những giai cấp những tầng lớp khác trong xã hội Nước Ta. Hồ Chí Minh là người rất chăm sóc đến việc tập hợp sự ủng hộ của những giai cấp những tầng lớp xã hội không phải là lực lượng chủ chốt của cách mạng vô sản như tư sản, địa chủ, tiểu thương nhỏ lẻ, tri thức … Thời kỳ này chính những chiến sỹ của Hồ Chí Minh đã phê phán đường lối cải lương ” liên minh với tư sản và địa chủ vừa và nhỏ ” của Hồ Chí Minh, không đúng đường lối đấu tranh giai cấp của Đệ Tam Quốc tế. [ 62 ] [ 63 ]

Ngay sau khi nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tuyên bố thành lập, giai đoạn 1945 – 1946, tình thế đất nước ở vào hoàn cảnh vô cùng hiểm nghèo, được ví như ngàn cân treo sợi tóc. Chính trong hoàn cảnh này, Hồ Chí Minh đã thể hiện tư tưởng về đại đoàn kết dân tộc của ông, giúp đất nước vượt qua cơn hiểm nghèo, giữ vững được nền độc lập non trẻ. Hồ Chí Minh đã gạt bỏ các bất đồng chính trị giữa các phe phái sang một bên, tập hợp các đảng phái chính trị để thành lập Chính phủ với mục tiêu phụng sự quốc gia, dân tộc. Trong đó mục tiêu độc lập dân tộc được đặt lên hàng đầu.

Quan điểm của Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc bản địa gồm có :

  • Đại đoàn kết dân tộc là vấn đề có ý nghĩa chiến lược quyết định thành công của cách mạng.
  • Đại đoàn kết là mục tiêu, là nhiệm vụ hàng đầu của cách mạng.
  • Đại đoàn kết dân tộc là đại đoàn kết toàn dân.
  • Đại đoàn kết phải biến thành sức mạnh vật chất, thành lực lượng vật chất có tổ chức thể hiện khối đại đoàn kết dân tộc là mặt trận dân tộc thống nhất dưới sự lãnh đạo của Đảng.

Trong tác phẩm “Nên Học Sử Ta”, Hồ Chí Minh đã viết: “Sử ta dạy cho ta bài học này: Lúc nào nhân dân ta đoàn kết muôn người như một thì đất nước ta độc lập tự do. Trái lại, lúc nào nhân dân ta không đoàn kết thì bị nước ngoài xâm lấn. Vậy nay ta phải biết đoàn kết, đoàn kết mau, đoàn kết chắc chắn thêm lên mãi…”[64]

Về phối hợp sức mạnh dân tộc bản địa với sức mạnh thời đại

Hồ Chí Minh là một trong những người Nước Ta tiên phong tham gia trào lưu cộng sản quốc tế tại thời gian Nước Ta chưa có bất kỳ tổ chức triển khai chính trị nào theo Chủ nghĩa Cộng sản. Ông là thành viên của tổ chức triển khai Quốc tế Cộng sản III, là người đã thống nhất những tổ chức triển khai đảng cộng sản riêng rẽ ở Nước Ta thành một chính đảng duy nhất theo thông tư của Quốc tế III. Chính Hồ Chí Minh là người liên kết trào lưu cách mạng vô sản Nước Ta và trào lưu cách mạng vô sản quốc tế. Thông qua Hồ Chí Minh, trào lưu cách mạng vô sản ở Nước Ta đã nhận được sự tương hỗ to lớn từ những nước xã hội chủ nghĩa như Liên Xô, Trung Quốc và những nước xã hội chủ nghĩa khác. Rất nhiều chỉ huy trào lưu cách mạng Nước Ta quan trọng đã được Hồ Chí Minh tổ chức triển khai sang Liên Xô hoặc Trung Quốc huấn luyện và đào tạo về chính trị và quân sự chiến lược .

Qua khảo sát thực tế, từ kinh nghiệm bản thân, Hồ Chí Minh đã nhận thức được rằng: chủ nghĩa đế quốc là một lực lượng phản động quốc tế, là kẻ thù chung của nhân dân lao động ở cả chính quốc và thuộc địa. Muốn đánh thắng chúng, phải thực hiện khối liên minh chiến đấu giữa lao động ở các thuộc địa với nhau và giữa lao động ở thuộc địa với vô sản ở chính quốc; nếu tách riêng mỗi lực lượng thì không thể nào thắng lợi được. Điểm vượt lên của Hồ Chí Minh so với các lãnh tụ yêu nước và chí sĩ cách mạng đầu thế kỷ XX chính là ở đó, nó nâng cao nhận thức của Hồ Chí Minh về sức mạnh của phong trào cộng sản trên thế giới và nhu cầu liên kết với phong trào đó để giành độc lập dân tộc.[65]

Quan điểm của Hồ Chí Minh về sự liên kết giữa phong trào cách mạng Việt Nam và phong trào cách mạng tại các nước khác cũng là phương châm cơ bản của phong trào cộng sản quốc tế thể hiện qua khẩu hiệu “Vô sản tất cả các nước đoàn kết lại“. Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại là một cách diễn đạt sự liên kết đó. Nội dung của việc kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại bao gồm:

  • Đặt cách mạng Việt Nam trong sự gắn bó với cách mạng vô sản thế giới.
  • Kết hợp chặt chẽ chủ nghĩa yêu nước chân chính với chủ nghĩa quốc tế trong sáng.
  • Giữ vững độc lập tự chủ, dựa vào sức mình là chính, tranh thủ sự giúp đỡ của các nước xã hội chủ nghĩa, sự ủng hộ của nhân loại tiến bộ, đồng thời không quên nghĩa vụ quốc tế cao cả của mình.
  • Mở rộng tối đa quan hệ hữu nghị, hợp tác, sẵn sàng là bạn với tất cả mọi nước dân chủ.

Theo Hồ Chí Minh, “phải làm cho các dân tộc thuộc địa, từ trước đến nay vẫn cách biệt nhau, hiểu biết nhau hơn và đoàn kết lại để đặt cơ sở cho một Liên minh phương Đông tương lai, khối liên minh này sẽ là một trong những cái cánh của cách mạng vô sản”[66]

Về Đảng Cộng sản Việt Nam ; về thiết kế xây dựng Nhà nước của dân, do dân, vì dân

Về Đảng cộng sản Việt Nam

  • Đảng cộng sản là nhân tố quyết định hàng đầu đưa cách mạng Việt Nam đến thắng lợi. Sức mạnh to lớn của nhân dân chỉ phát huy khi được tập hợp, đoàn kết và được lãnh đạo bởi một tổ chức chính trị là Đảng Cộng sản Việt Nam. Hồ Chí Minh khẳng định: “Lực lượng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động là rất to lớn, là vô cùng vô tận. Nhưng lực lượng ấy cần có Đảng lãnh đạo mới chắc chắn thắng lợi”,[67] giai cấp mà không có Đảng lãnh đạo thì không làm cách mạng được.[68]
    • Trong cuốn sách Đường Kách mệnh xuất bản năm 1927, Hồ Chí Minh viết: “Cách mệnh trước hết phải có cái gì? Trước hết phải có đảng cách mệnh, để trong thì vận động và tổ chức dân chúng, ngoài thì liên lạc với dân tộc bị áp bức và vô sản giai cấp mọi nơi. Đảng có vững cách mệnh mới thành công, cũng như người cầm lái có vững thuyền mới chạy”.[69] Hồ Chí Minh cho rằng: “Muốn khỏi đi lạc phương hướng, quần chúng phải có Đảng lãnh đạo để nhận rõ tình hình, đường lối và định phương châm cho đúng. Cách mạng là cuộc đấu tranh rất gian khổ. Lực lượng kẻ địch rất mạnh. Muốn thắng lợi thì quần chúng phải tổ chức rất chặt chẽ; chí khí phải kiên quyết. Vì vậy, phải có Đảng để tổ chức và giáo dục nhân dân thành một đội quân thật mạnh, để đánh đổ kẻ địch, tranh lấy chính quyền. Cách mạng thắng lợi rồi, quần chúng vẫn cần có Đảng lãnh đạo”[70]
  • Đảng Cộng sản Việt Nam là sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa Mác – Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước
  • Đảng Cộng sản Việt Nam phải biết thừa nhận khuyết điểm của mình, vạch rõ những cái đó, vì đâu mà có rồi tìm kiếm mọi cách để sửa chữa khuyết điểm đó.
Trong tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc” viết năm 1947 Hồ Chí Minh cho rằng:
Một Đảng mà giấu giếm khuyết điểm của mình là một Đảng hỏng. Một Đảng có gan thừa nhận khuyết điểm của mình, vạch rõ những cái đó, vì đâu mà có rồi tìm kiếm mọi cách để sửa chữa khuyết điểm đó. Như thế là một Đảng tiến bộ, mạnh dạn, chắc chắn, chân chính.
— Hồ Chí MinhSửa đổi lối làm việc (1947)[71]

Về kiến thiết xây dựng nhà nước của dân, do dân, vì dân

Tư tưởng về kiến thiết xây dựng nhà nước của dân, do dân, vì dân của Hồ Chí Minh biểu lộ qua những quan điểm sau :

  • Hồ Chí Minh cho rằng Nhà nước là đày tớ chung của dân, cán bộ làm việc không phải là để thăng quan, phát tài. Nếu Chính phủ làm hại dân thì dân có quyền đuổi Chính phủ.

Chính phủ Cộng hòa Dân chủ là gì ? Là đày tớ chung của dân, từ Chủ tịch toàn quốc đến làng. Dân là chủ thì Chính phủ phải là đày tớ. Làm việc ngày nay không phải là để thăng quan, phát tài. Nếu Chính phủ làm hại dân thì dân có quyền đuổi Chính phủ. Nhưng khi dân dùng đày tớ làm việc cho mình thì phải giúp đỡ Chính phủ. Nếu Chính phủ sai thì phải phê bình, phê bình nhưng không phải là chửi.[72]

— Hồ Chí Minh, Bài nói chuyện với các đại biểu thân sĩ trí thức, phú hào tỉnh Thanh Hóa, ngày 20/2/1947
  • Nhà nước phải đặt lợi ích dân chúng lên trên hết, trước hết; phải gần gũi dân, hiểu biết dân, học hỏi dân; phải thật thà thực hành phê bình và tự phê bình; phải làm kiểu mẫu: cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư.
Phải đặt lợi ích dân chúng lên trên hết, trước hết..
Phải gần gũi dân, hiểu biết dân, học hỏi dân.
Phải thật thà thực hành phê bình và tự phê bình.
Phải làm kiểu mẫu: Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư.[73]
— Hồ Chí Minh

Về nông dân

Xem giai cấp nông dân là lực lượng phần đông nhất của trào lưu dân tộc bản địa, là cơ sở cho những cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc bản địa, có gắn bó mật thiết với giai cấp công nhân, chịu áp bức bởi thực dân Pháp và tay sai ( phong kiến và địa chủ ), chuẩn bị sẵn sàng đứng lên cùng công nhân trong cuộc cách mạng vô sản đang tăng trưởng. Trong Sách lược cách mạng của Đảng, Người viết : ” Đảng phải thu phục cho được đại bộ phận dân cày và phải dựa vào dân cày nghèo làm thổ địa cách mạng, đánh trúc bọn đại địa chủ và phong kiến. Đảng phải làm cho những đoàn thể thợ thuyền và dân cày ( hội đồng, hợp tác xã ) khỏi ở dưới quyền lực tối cao và ảnh hưởng tác động của bọn tư bản vương quốc. Đảng phải rất là liên lạc với tiểu tư sản, tri thức, trung nông ” .

Tổng kết quá trình lãnh đạo cách mạng, Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Trải qua các thời kỳ, Đảng ta đã nắm vững và giải quyết đúng đắn vấn đề nông dân, củng cố được liên minh công nông. Đảng ta đấu tranh chống những xu hướng “hữu khuynh” và “tả khuynh” đánh giá thấp vai trò của nông dân là quân chủ lực của cách mạng, là bạn đồng minh chủ yếu và tin cậy nhất của giai cấp công nhân, là lực lượng cơ bản cùng với giai cấp công nhân xây dựng chủ nghĩa xã hội”.

Về công nhân

Tất cả những người không có tư liệu sản xuất, phải bán sức lao động mà sống, bất kể họ lao động trong công nghệp hay là trong nông nghiệp, bất kể họ làm nghề gì, cũng đều thuộc giai cấp công nhân. Chủ chốt của giai cấp ấy, là những công nhân tại những nhà máy sản xuất như xí nghiệp sản xuất, hầm mỏ, xe lửa v.v. Những công nhân thủ công nghệ, những người làm thuê ở những shop, những cố nông v.v. cũng thuộc giai cấp công nhân. Nhưng chỉ công nhân công nghiệp là trọn vẹn đại biểu cho đặc tính của giai cấp công nhân .Đặc tính cách mạng của giai cấp công nhân là : nhất quyết, triệt để, tập thể, có tổ chức triển khai, kỷ luật. Công nhân là giai cấp tiên tiến và phát triển nhất trong sức sản xuất, có nghĩa vụ và trách nhiệm đánh đổ chính sách của chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa đế quốc, kiến thiết xây dựng một xã hội mới. Vì những lẽ đó, giai cấp công nhân hoàn toàn có thể lĩnh hội và thấm nhuần một tư tưởng cách mạng nhất : chủ nghĩa Mác-Lênin. Đồng thời, niềm tin đấu tranh của họ ảnh hưởng tác động và làm gương cho những những tầng lớp khác. Do đó, về mặt chính trị, tư tưởng, tổ chức triển khai và hành vi, giai cấp công nhân đều giữ vai trò chỉ huy. [ 74 ]

Về quân sự chiến lược

Tư tưởng quân sự chiến lược Hồ Chí Minh là quan điểm và kim chỉ nan của Hồ Chí Minh về việc thiết kế xây dựng nền quốc phòng, lực lượng vũ trang, về những yếu tố có tính quy luật của khởi nghĩa vũ trang và cuộc chiến tranh cách mạng, về chính trị và quân sự chiến lược. Đó là sự vận dụng triết lý quân sự chiến lược của chủ nghĩa Mác-Lênin vào thực tiễn Nước Ta, phối hợp truyền thống cuội nguồn quân sự chiến lược, nghệ thuật và thẩm mỹ binh pháp truyền thống của dân tộc bản địa Nước Ta, tiếp thu khoa học quân sự chiến lược cổ kim của trái đất .Một trong những cơ sở quân sự chiến lược của tư tưởng Hồ Chí Minh là lấy dân làm gốc theo mục tiêu ” quân với dân như cá với nước “, toàn bộ sức mạnh đều từ dân mà ra. Cơ sở tiếp theo của quân sự chiến lược là chính trị. Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, quân sự chiến lược Giao hàng cho chính trị là một quan điểm cơ bản, đấu tranh chính trị và cuộc chiến tranh quân sự chiến lược luôn gắn bó với nhau. Do đó, trong Quân đội nhân dân Nước Ta luôn có những chính trị viên và chính ủy, họ có trách nhiệm giáo dục chính trị trong quân đội .Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, cuộc chiến tranh ở Nước Ta là đại chiến của toàn dân chống ngoại xâm, gồm có cả ba thứ quân : quân nòng cốt, quân địa phương và dân quân tự vệ. Nguyên tắc ” ba thứ quân ” này là kế thừa từ truyền thống lịch sử tổ chức triển khai quân sự chiến lược truyền thống trong lịch sử dân tộc Nước Ta, khi đó những thành phần hương binh, quân những lộ và quân triều đình đều tham gia chiến sự. Chiến tranh du kích là nền tảng, phối hợp với cuộc chiến tranh chính quy, lấy nhỏ quấy phá lớn, lấy thế thắng lực, vận dụng cơ sở niềm tin chính trị khi cần, ứng dụng quân sự chiến lược tiên tiến và phát triển .Chiến lược cơ bản chống đối phương xâm lược là trong bước đầu triển khai quấy rối, làm hao mòn lực lượng, đánh vào tâm ý, sau đó gây sức ép chính trị để đối phương tự rút quân. quản trị Hồ Chí Minh phát biểu về Chiến tranh Đông Dương như sau :

Nó sẽ là một cuộc chiến giữa voi và hổ. Nếu hổ đứng yên thì sẽ bị voi dẫm chết. Nhưng hổ không đứng yên. Ban ngày nó ẩn nấp trong rừng và ra ngoài vào ban đêm. Nó sẽ nhảy lên lưng voi, xé những mảnh da lớn, và rồi nó sẽ chạy trở lại vào rừng tối. Và dần dần, con voi sẽ chảy máu đến chết. Cuộc chiến tranh ở Đông Dương sẽ như vậy.

— Hồ Chí Minh[75]

Phương pháp cuộc chiến tranh của tư tưởng này nhấn mạnh vấn đề vào việc vận dụng hài hòa và hợp lý việc kiến thiết xây dựng lực lượng và đánh tiêu tốn đối phương, trong đó việc kiến thiết xây dựng lực lượng, tích trữ lương thảo, vũ khí, và trường kỳ mai phục vào mùa khô, ẩn nấp vào ban ngày, đánh tiêu tốn địch vào mùa mưa và đêm hôm .

Về dân chủ

Theo bài hướng dẫn chính trị của ông về dân chủ, đăng trên mục Thường thức chính trị năm 1953, theo ông đặc thù dân chủ tại Nước Ta là : [ 76 ]

  • Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản và giai cấp công nhân, trên nền tảng công nông liên minh, nhân dân lao động làm chủ nước nhà, xây dựng dân chủ nhân dân chuyên chính, nghĩa là dân chủ với nhân dân, chuyên chính với thế lực phản động.
  • Tư tưởng của giai cấp công nhân (tư tưởng Marx-Lenin) là tư tưởng lãnh đạo, ngày càng phát triển và củng cố.
  • Đảng Cộng sản lãnh đạo giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Dưới sự lãnh đạo của Đảng này, nhân dân có đoàn thể cách mạng chắc chắn của nó như: Công đoàn, Nông hội, Hội thanh niên, Hội phụ nữ,… thực hiện dân chủ, xây dựng chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản.

Ông quan niệm dân chủ nghĩa là quyền lực thuộc về nhân dân vì thế “Chúng ta đã hy sinh làm cách mệnh, thì nên làm cho đến nơi, nghĩa là làm sao cách mệnh rồi thì quyền giao cho dân chúng số nhiều, chớ để trong tay một bọn ít người. Thế mới khỏi hy sinh nhiều lần, thế dân chúng mới được hạnh phúc.[77]”.

Dân chủ là “của báu” vì đó không phải là thứ tự nhiên có sẵn mà đó là thành quả của cách mạng, nhân dân Việt Nam đã phải đấu tranh, hy sinh gian khổ mới giành được. Dân chủ là “làm sao cho dân mở miệng, đừng để cho dân sợ không dám mở miệng, nhưng điều đáng lo hơn nữa là khiến dân không thiết mở miệng. Khi người dân không còn niềm tin để tham gia vào công việc chung nữa là khi khoảng cách giữa Đảng và dân đã quá xa.“[78] Có dân chủ mới làm cho cán bộ và quần chúng đề ra sáng kiến. Thực hành dân chủ có tác dụng giải phóng tiềm năng sáng tạo của người dân và trở thành động lực của sự tiến bộ và phát triển. Trái lại, ông cho rằng, nếu trong cán bộ, nhân dân “ít sáng kiến, ít hăng hái là vì nhiều lẽ. Mà trước hết là vì cách lãnh đạo của ta không được dân chủ“.[79] Nhân dân là yếu tố quyết định mọi thắng lợi của cách mạng[80] vì thế Đảng viên phải nắm vững đường lối, chính sách của Đảng, gần dân, chịu khó đi sâu đi sát cơ sở, nắm vững tình hình đời sống, tâm tư nguyện vọng của nhân dân[81] đồng thời phải gương mẫu, làm đúng chính sách, tôn trọng quyền làm chủ của nhân dân, lắng nghe ý kiến quần chúng.[81]

Về khái niệm ” dân chủ tập trung chuyên sâu “, ông cho rằng những cơ quan chính quyền sở tại phải thống nhất, tập trung chuyên sâu. Từ Hội đồng nhân dân và Uỷ ban kháng chiến hành chính xã đến Quốc hội và nhà nước Trung ương, thiểu số phải phục tùng hầu hết, cấp dưới phải phục tùng cấp trên, địa phương phải phục tùng TW. Thế là vừa dân chủ vừa tập trung chuyên sâu. [ 82 ]

Hồ Chí Minh có quan điểm không khoan nhượng với những hành vi lợi dụng chiêu bài dân chủ, nhân danh dân chủ để chống phá cách mạng. Theo ông thì dân chủ là của quý báu nhất của nhân dân, chuyên chính là cái khóa, cái cửa để phòng kẻ phá hoại. Dân chủ và chuyên chính đi đôi với nhau. Muốn dân chủ thực sự phải chuyên chính thực sự vì nếu không chuyên chính thực sự thì “bọn thù địch sẽ làm hại dân chủ của nhân dân“. Dân chủ và chuyên chính quan hệ mật thiết với nhau.[83] Hồ Chí Minh cho rằng dưới chế độ tư bản, phong kiến, chuyên chính là số ít người chuyên chính với đại đa số nhân dân. Dưới chế độ dân chủ, chuyên chính là đại đa số nhân dân chuyên chính với thiểu số phản động chống lại lợi ích của nhân dân, chống lại chế độ dân chủ của nhân dân.[84]

Về yếu tố giai cấp

Tất cả của cải vật chất trong xã hội, đều do công nhân và nông dân làm ra. Nhờ sức lao động của công nhân và nông dân, xã hội mới sống còn và tăng trưởng. Song hầu hết người lao động thì suốt đời nghèo khó, mà thiểu số người không lao động thì lại tận hưởng thành quả lao động đó. Đó là do 1 số ít ít người đã chiếm làm tư hữu những tư liệu sản xuất của xã hội. Họ có tư liệu sản xuất nhưng họ không làm lụng, họ bắt buộc người khác làm cho họ hưởng. Do đó mà có giai cấp. Những người chiếm tư liệu sản xuất không làm mà hưởng, là giai cấp bóc lột hay giai cấp tư sản. Những người lao động mà không được hưởng giá trị thặng dư và thành quả lao động là giai cấp bị bóc lột hay giai cấp công nhân. [ 85 ]

Về văn hóa truyền thống

Theo Hồ Chí Minh: “Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó tức là văn hoá”. Văn hoá có vị trí, vai trò, tính chất và chức năng quan trọng. Văn hoá phải soi đường cho quốc dân đi, phải làm cho ai cũng có lý tưởng độc lập, tự chủ và có ý thức đấu tranh chống tệ nạn tham nhũng, lười biếng, xa xỉ. Ông chỉ rõ ba lĩnh vực chính của văn hoá là văn hoá giáo dục, văn hoá văn nghệ và văn hoá đời sống. Người cách mạng cần cải tạo, sửa đổi văn hóa cũ đồng thời xây dựng, sáng tạo ra các giá trị văn hóa mới.[86]

Về đạo đức

Tổng quan

Đạo đức là một trong những yếu tố chăm sóc số 1 và xuyên suốt hàng loạt sự nghiệp cách mạng của Hồ Chí Minh. Ông không những để lại những tác phẩm lý luận về đạo đức, mà còn cố gắng nỗ lực trở thành một hình mẫu đạo đức cho cấp dưới noi theo. Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh bắt nguồn từ quan điểm đạo đức Nho giáo phối hợp với những quan điểm đạo đức cách mạng của Lenin, Stalin, Mao Trạch Đông. Theo ông, đạo đức là nền tảng của con người. Chính cho nên vì thế người cách mạng phải có cái tâm trong sáng, cái đức cao đẹp. Đức cũng cần song song với tài. Hồ Chí Minh cho rằng đạo đức biểu lộ tập trung chuyên sâu trải qua ba mối quan hệ : so với mình, so với người và so với việc làm. Ông liên tục nhắc nhở cấp dưới nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá thể. [ 86 ]Hồ Chí Minh là một lãnh tụ đặc biệt quan trọng chú trọng tới đạo đức cách mạng. Ông chăm sóc một cách đồng nhất, xuyên suốt từ lúc thành niên đến tận cuối đời. Bắt đầu sự nghiệp cách mạng, Hồ Chí Minh khởi đầu giáo dục lý tưởng cách mạng và đạo đức cách mạng cho những người yêu nước, cho người trẻ tuổi, quần chúng nhân dân. Ông đặt lên hàng đầu tư cách của một người cách mạng trong những bài giảng lý luận cách mạng tiên phong cho lớp người trẻ tuổi Nước Ta yêu nước tiên phong đang đi tìm con đường cách mạng. Đến cuối đời, trăn trở về Đảng cầm quyền, ông lại dặn đảng viên, cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư. Hồ Chí Minh không chỉ là người giáo dục đạo đức cách mạng mà còn hiện thân của đạo đức cách mạng, nêu gương cho cấp dưới và nhân dân .

Nguồn gốc

Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh là sự phối hợp những giá trị đạo đức tốt đẹp của dân tộc bản địa với tinh hoa đạo đức quả đât ; truyền thống cuội nguồn với văn minh ; phương Đông và phương Tây, được hình thành và tăng trưởng từ nhu yếu của sự nghiệp giải phóng dân tộc bản địa .

Theo Hồ Chí Minh “có học tập lý luận Marx – Lenin mới củng cố được đạo đức cách mạng, giữ vững lập trường, nâng cao sự hiểu biết và trình độ chính trị, mới làm tốt được tốt công tác Đảng giao phó cho mình”. Trong khi đề cập đến những nội dung, phẩm chất đạo đức mới, Hồ Chí Minh sử dụng một số thành ngữ dân gian nhưng cải biến nội dung, đưa yêu cầu, nội dung mới vào, có ý nghĩa cách mạng. Đạo đức cách mạng không phủ nhận đạo đức truyền thống, bao gồm đạo đức truyền thống. Đạo đức truyền thống phát triển thành đạo đức cách mạng. Đạo đức Hồ Chí Minh là đạo đức cộng sản chủ nghĩa nhưng rất Việt Nam cả về nội dung và hình thức. Đó là sự kết hợp sáng tạo nhân sinh quan của chủ nghĩa Marx – Lenin với truyền thống của dân tộc Việt Nam, một dân tộc coi trọng phẩm chất con người và đạo lý làm người với hạt nhân “trồng cây đức để con ăn”, “của tuy tơ tóc, nghĩa so nghìn trùng”.

Trong di sản đạo đức Hồ Chí Minh, chủ nghĩa yêu nước đi đôi hòa giải với chủ nghĩa quốc tế. Trong truyền thống cuội nguồn, đại nghĩa là cứu nước, đến cách mạng và văn minh là lý tưởng xã hội chủ nghĩa. Chủ nghĩa anh hùng truyền thống cuội nguồn, ngày này là chủ nghĩa anh hùng cách mạng … Hồ quản trị dạy “ Trung với nước, hiếu với dân ”. Đạo đức cách mạng gồm có những đức tính và những quan hệ to lớn, sâu xa, mới lạ hơn là đạo đức truyền thống, như chống chủ nghĩa cá thể, thiết kế xây dựng ý thức tập thể, bổn phận, nghĩa vụ và trách nhiệm tận tâm tận lực Giao hàng tổ quốc, ship hàng cách mạng, ship hàng nhân dân .

Nho giáo là một nguồn gốc hình thành tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh. Sinh ra trong một gia đình nhà Nho, Hồ Chí Minh hiểu rằng “Khổng giáo không phải là tôn giáo mà là một thứ khoa học về kinh nghiệm đạo đức và phép ứng xử”. Khổng Tử đứng đầu các nhà hiền triết, được tôn sùng, vì “đạo đức của ông, học vấn của ông và những kiến thức của ông làm cho những người cùng thời và hậu thế phải cảm phục… Đạo đức của ông là hoàn hảo. Những người An Nam chúng ta hãy tự hoàn thiện mình, về mặt tinh thần bằng cách đọc các tác phẩm của Khổng Tử”.

Bản chất

  • Đạo đức Hồ Chí Minh mang bản chất giai cấp công nhân.
  • Đạo đức Hồ Chí Minh thể hiện sự sự thống nhất giữa chính trị với đạo đức.
  • Đạo đức Hồ Chí Minh thống nhất giữa tư tưởng và hành động, lý luận và thực tiễn, nói và làm.
  • Đạo đức Hồ Chí Minh thống nhất giữa đức với tài.
  • Đạo đức Hồ Chí Minh thống nhất giữa đạo đức cách mạng và đạo đức đời thường.
  • Đạo đức Hồ Chí Minh có sự thống nhất giữa “đức trị” với “pháp trị”.
  • Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh rất toàn diện.

Về nhân văn

Tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh bộc lộ ở chỗ ông nhất quyết đấu tranh, tố cáo những tội ác gây ra cho con người và đặt niềm tin vào sức mạnh, phẩm giá, vào khát vọng vươn tới Chân, Thiện, Mỹ của con người. Theo Hồ Chí Minh, con người vừa là tiềm năng, vừa là động lực của cách mạng do đó ông nguyện phấn đấu suốt đời cho niềm hạnh phúc của con người trong một xã hội công minh và coi việc giáo dục, đào tạo và giảng dạy con người là kế hoạch số 1 của cách mạng. [ 86 ]

Nhận định

Tại Nước Ta

Trên cơ sở những hành vi, lời nói, bài viết, phát biểu … của ông, nhiều nhà nghiên cứu đã đúc rút, khái quát lên thành ” tư tưởng Hồ Chí Minh “. Do phần nhiều cuộc sống ông dành cho những hoạt động giải trí cách mạng và trong những tiến trình khác nhau, quan điểm của ông có những sự vận động và di chuyển khác nhau, mang tính ” kế hoạch “, hay ” sách lược ” tương thích với thực trạng thực tiễn yên cầu cách mạng. Nhiều tư liệu chưa được công bố. Khi ông mất, quốc gia chưa thống nhất, và trào lưu cộng sản quốc tế đang có sự tăng trưởng song song với sự phân rẽ, nên những quan điểm của ông đến khi đó mang tính sách lược nhiều hơn là mạng lưới hệ thống lý luận xuyên suốt. Rất khó để phân biệt sự độc lập tư tưởng của ông với những tư tưởng khác đủ để khái quát lên thành một tư tưởng triết học hay chính trị độc lập. Phần lớn những giáo trình tư tưởng Hồ Chí Minh không nghiên cứu và phân tích những quan điểm của ông theo những thời kỳ lịch sử dân tộc, không nghiên cứu và phân tích đơn cử những tác phẩm của ông theo thời hạn. Có những quan điểm cho rằng tư tưởng Hồ Chí Minh là ” trái chiều ” với chủ nghĩa Marx – Lenin, là theo chủ nghĩa dân tộc bản địa, ” như nhau ‘ chủ nghĩa dân tộc bản địa ‘ trong tư tưởng Hồ Chí Minh là chủ nghĩa dân tộc bản địa sô-vanh nước lớn, chủ nghĩa dân tộc bản địa hẹp hòi, mang thực chất của giai cấp tư sản “, hay ” Hồ Chí Minh chỉ lấy chủ nghĩa Marx – Lenin làm phương tiện đi lại “. Tuy nhiên nhà nước Nước Ta vẫn chứng minh và khẳng định Hồ Chí Minh đi theo chủ nghĩa Marx – Lenin, chủ nghĩa cộng sản, chủ nghĩa dân tộc bản địa trong tư tưởng Hồ Chí Minh thực ra là chủ nghĩa dân tộc bản địa vô sản, tăng trưởng thành chủ nghĩa quốc tế. Theo quan điểm Marxist thì chủ nghĩa dân tộc bản địa lạ lẫm với thực chất của giai cấp vô sản là giai cấp đại diện thay mặt cho chủ nghĩa quốc tế. Theo Hồ Chí Minh, ” Dù màu da có khác nhau, trên đời này chỉ có hai giống người : giống người bóc lột và giống người bị bóc lột. Mà cũng chỉ có một mối tình hữu ái là thật mà thôi : tình hữu ái vô sản “. [ 87 ]Theo PGS.TS Lê Văn Tích, Học viện Chính trị – Hành chính Quốc gia, Hồ Chí Minh là người Nước Ta tiên phong tích hợp thành công xuất sắc sức mạnh trong nước và quốc tế – dân tộc bản địa và thời đại, yếu tố khách quan và chủ quan để tìm ra giải thuật cho ” Bài toán thế kỷ ” đã đặt ra cho dân tộc bản địa từ đầu thế kỷ XX. Mặc dù Luận cương của Lenin cũng như những quan điểm của Quốc tế Cộng sản và Đảng Cộng sản Pháp có vị trí quan trọng trong ” con đường cứu nước ” mà Hồ Chí Minh tìm đến ; tuy nhiên đó chưa phải là con đường cứu nước Hồ Chí Minh, bởi lẽ đó chỉ là những nguyên tắc lý luận, xu thế mang tính thông dụng. Con đường cứu nước Hồ Chí Minh là sự vận dụng phát minh sáng tạo những nguyên tắc, quan điểm ấy vào thực trạng đơn cử của cách mạng Nước Ta. [ 88 ] Theo Giáo trình tư tưởng Hồ Chí Minh của Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hồ Chí Minh tiếp thu những nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin về chủ nghĩa xã hội, đã vận dụng và tăng trưởng một cách phát minh sáng tạo, đưa ra nhiều kiến giải mới nhằm mục đích bổ trợ vào lý luận Mác – Lênin. [ 89 ]

Các nhà nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh đánh giá nét sáng tạo của Hồ Chí Minh trước hết là ở chỗ, Hồ Chí Minh đến với chủ nghĩa xã hội, luận giải nó từ khát vọng giải phóng dân tộc và nhu cầu giải phóng con người một cách triệt để.[89] Hồ Chí Minh luận giải tính tất yếu và bản chất của chủ nghĩa xã hội trên cơ sở kế thừa và phát triển các giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc Việt Nam, của phương Đông. Từ việc phân tích một cách khoa học truyền thống tư tưởng – văn hóa, điều kiện kinh tế – xã hội của Việt Nam, các nước phương Đông, sự tàn bạo của chế độ thuộc địa tại các nước đó, Hồ Chí Minh đi đến một nhận thức mới lạ: Chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản không những thích ứng được ở châu Á, phương Đông mà còn thích ứng dễ hơn ở châu Âu.[89] Hồ Chí Minh đã nhận thức tính tất yếu và bản chất của chủ nghĩa xã hội như là kết quả tác động tổng hợp của các nhân tố: truyền thống và hiện tại; dân tộc và quốc tế; kinh tế, chính trị, đạo đức, văn hóa. Ông không tuyệt đối hóa một mặt nào và đánh giá đúng vị trí của chúng. Trước hết, Hồ Chí Minh luận giải sự ra đời và bản chất của chủ nghĩa xã hội từ phương diện kinh tế, trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Hồ Chí Minh cho rằng, sự hình thành, phát triển và chín muồi của chủ nghĩa xã hội là một tất yếu mà nguyên nhân sâu xa chính là do sự phát triển của lực lượng sản xuất xã hội. Trên cơ sở một nền tảng kinh tế mới, chủ nghĩa xã hội sẽ xác lập một hệ thống, các giá trị đặc thù mang tính nhân bản thấm sâu vào mỗi quan hệ và lĩnh vực xã hội. Sự thống nhất giữa tính khoa học và tính nhân văn thể hiện rất rõ trong nhận thức của Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội.[89] Giáo trình tư tưởng Hồ Chí Minh cho rằng Hồ Chí Minh đã làm phong phú cách tiếp cận về chủ nghĩa xã hội, có những cống hiến xuất sắc vào việc phát triển lý luận Mác – Lênin.[89] Quan niệm Hồ Chí Minh về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là quan niệm về một hình thái quá độ gián tiếp cụ thể – quá độ từ một xã hội thuộc địa, nửa phong kiến, nông nghiệp lạc hậu đi lên chủ nghĩa xã hội. Đây chính là sự phát triển sáng tạo luận điểm của Lênin về hai giai đoạn cách mạng- cách mạng dân tộc dân chủ và cách mạng xã hội chủ nghĩa.[90] Chính ở nội dung cụ thể này, Hồ Chí Minh đã cụ thể hóa và làm phong phú thêm lý luận Mác – Lênin về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.[49] Tuy nhiên do hoàn cảnh kinh tế – chính trị – xã hội kém phát triển, lạc hậu của Việt Nam trong thời kỳ nửa thuộc địa nửa phong kiến và sau khi giành độc lập. Nên trong nhiều bài viết, bài phát biểu, diễn giải của Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội hết sức đơn giản cho phù hợp với trình độ dân trí, nhận thức của đại đa số quần chúng và cán bộ, đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam lúc đó.

Theo nhìn nhận, những thành phần trong tư tưởng Hồ Chí Minh đã từng có trước đó. Bản thân chủ nghĩa dân tộc bản địa đã có trong Luận cương của Lênin khi ông chỉ ra con đường đấu tranh giải phóng dân tộc bản địa của những dân tộc bản địa thuộc địa. Còn tư tưởng dân chủ thì đã có từ lâu với những đại biểu nổi tiếng như Jean-Jacques Rousseau, Thomas Jefferson, John Stuart Mill, Alexis de Tocqueville … được Mác, Lênin thừa kế với sáng tạo độc đáo về một nền dân chủ nhân dân – tức nền dân chủ cho số đông. Tư tưởng cộng hòa cũng không có gì mới vì nó đã được những nhà tư tưởng phương Tây như Plato, John Locke, Montesquieu … đề cập từ trước đó hàng trăm năm, hơn thế nữa những triết lý gia của chủ nghĩa cộng sản đều chủ trương chống lại những tàn dư của chính sách phong kiến, [ 91 ] kiến thiết xây dựng nhà nước cộng hòa. Còn mặt trận dân tộc bản địa thống nhất, đoàn kết những giai cấp trong đấu tranh chống phát xít thực dân thì rất nhiều những đảng cộng sản những nước khác cũng triển khai ( Mặt trận Bình dân ở Pháp Đảng Xã hội liên minh với Đảng Cộng sản … ), Mặt trận chống quân phiệt ( Quốc dân đảng với Đảng Cộng sản, … ), phát xít Nhật ( Quốc dân đảng với Đảng cộng sản, … ), ở Trung Quốc, hay 1 số ít mặt trận ở Tây lẫn Đông Âu thời thế chiến II, ngay ở Lào, Campuchia, nhiều nước khác chống thực dân cũ và mới ( ví dụ Liên đoàn Tự do nhân dân chống phát xít ở Miến Điện, Lào Issara ở Lào, Mặt trận dân chủ nhân dân ở Indonesia, … ) .

Từ bên ngoài

Vì tư tưởng Hồ Chí Minh hầu hết được vận dụng ở cách mạng Nước Ta, nên hệ tư tưởng này không được nhiều những học giả Phương Tây nghiên cứu và điều tra như so với những hệ tư tưởng khác. Một số điều tra và nghiên cứu nhìn nhận tích cực về ý nghĩa của Tư tưởng Hồ chí Minh so với cách mạng giải phóng dân tộc bản địa chống chủ nghĩa thực dân ở Nước Ta và ở Đông Dương .

Tháng 12 năm 2008, tại cuộc Hội thảo Việt Nam học tại Hà Nội, giáo sư Yoshiharu Tsuboi, đại học Waseda, Nhật Bản, đã thu hút sự chú ý của hàng trăm nhà nghiên cứu Việt Nam và nhiều nước với bài thuyết trình nhận định Hồ Chí Minh là người “theo chủ nghĩa cộng hòa chứ không phải cộng sản”. Giáo sư cho rằng: “Có lẽ giá trị mà Hồ Chí Minh coi trọng nhất trong suốt cuộc đời mình là những giá trị của nền cộng hòa”, “cơ sở lý luận là Tự do, Bình đẳng, Bác ái”. Tóm lược bài thuyết trình: Hồ Chí Minh coi mục tiêu cao nhất là giải phóng dân tộc, giành độc lập cho đất nước; không chỉ xây dựng chế độ Dân chủ Cộng hòa mà còn xây dựng những con người đóng vai trò gánh vác quốc gia độc lập; không chỉ đất nước được độc lập, nhà nước có chủ quyền, mà phải thực hiện thứ tự do của mỗi người dân. Người dân phải trở thành chủ thể xây dựng từ dưới lên trật tự của nền cộng hòa. Từng cá nhân suy nghĩ, quyết định với tinh thần trách nhiệm cao. Hồ Chí Minh cho rằng mỗi người dân đều có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc và phải chủ động, tích cực tranh đấu để giành được hạnh phúc. Hồ Chí Minh đã trích dẫn các ý tưởng về Tự do, Bình đẳng, Bác ái và các quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc từ khẩu hiệu của Pháp và Tuyên ngôn Độc lập Hoa Kỳ đưa vào Tuyên ngôn độc lập khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.

Về mối quan hệ của ông với Quốc tế cộng sản, bà Quinn-Judge, hiện dạy ở ĐH Temple của Mỹ, nói Hồ Chí Minh không phải là ” đồ đệ một chiều ” của Quốc tế cộng sản. Quan hệ của ông với trào lưu này phức tạp và mong manh, và nếu nhận thấy đường lối của Quốc tế cộng sản có những điểm không tương thích với tình hình trong thực tiễn tại Nước Ta thì ông có khuynh hướng hành vi theo lý tưởng của mình, vốn được ông nghiên cứu và điều tra để vận dụng vào tình hình trong thực tiễn tại Nước Ta. [ 92 ]

Nhà sử học Pháp, ông Pierre Brocheux thì cho rằng: Hồ Chí Minh về bản chất thực ra là một người theo Khổng giáo. Ông luôn cố gắng kết hợp những ý tưởng của Khổng Giáo, một truyền thống ý thức hệ Đông Á với các dòng tư tưởng châu Âu, từ Mác-xít đến Lênin-nít, trước sau ông là một người tốt, một người Khổng Giáo. Theo ông Pierre Brocheux, ông đã cố gắng đưa vào thực tế tính nhân bản và tính công bằng xã hội theo kiểu của Khổng Giáo.[93]

Khi là thành viên Quốc tế Cộng sản, Hồ Chí Minh vẫn cho rằng lúc đó cần ưu tiên ” đấu tranh giải phóng dân tộc bản địa giành lại độc lập cho Nước Ta chứ không phải là yếu tố giai cấp. Về mặt này, Hồ Chí Minh không phải là một người cộng sản ‘ chính thống ‘ theo chủ nghĩa Mác-Lênin “. [ 62 ] [ 63 ]

Giá trị

Giá trị dân tộc bản địa

Theo Đảng Cộng sản Việt Nam, giá trị dân tộc của tư tưởng Hồ Chí Minh được khẳng định thông qua thực tiễn lịch sử trong thế kỷ XX: giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước và đi vào sự nghiệp đổi mới đưa Việt Nam từng bước tiến kịp sự phát triển chung của nhân loại và ngày càng khẳng định vị thế của mình trên thế giới. Ngày nay, trong tiến trình Đổi Mới, tư tưởng Hồ Chí Minh tiếp tục dẫn dắt Đảng cộng sản Việt Nam, nhân dân Việt Nam. Sự ghi nhận đó được thể hiện trong Cương lĩnh được thông qua tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng: “Đảng lấy chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động”. Trên thực tế, sự nghiệp Đổi Mới thành công chính là nhờ nhận thức và hành động đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam và nhân dân theo tư tưởng Hồ Chí Minh trong điều kiện lịch sử mới của công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội xã hội chủ nghĩa. Giá trị nền tảng và kim chỉ nam của tư tưởng Hồ Chí Minh càng được sáng tỏ cho dù có sự vận động với những biến đổi khó lường của quan hệ quốc tế đang đặt các trước các dân tộc nhỏ và toàn nhân loại tiến bộ.  

Hiện nay hệ tư tưởng của Chủ Tịch Hồ Chí Minh được 1 số ít những nước Châu Phi vận dụng vào quốc gia để nhớ đến sự quý báu của bác, giúp họ giành được độc lập

Giá trị quả đât

Tư tưởng Hồ Chí Minh có giá trị thúc đẩy phong trào giải phóng dân tộc và phong trào đấu tranh vì hòa bình, dân chủ, tiến bộ xã hội, thúc đẩy phong trào đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân xâm lược, chống chiến tranh và sự bất bình đẳng dân tộc, xã hội trên thế giới. Dưới tác động và sự cổ vũ của tư tưởng Hồ Chí Minh, nhân dân Việt Nam, trong thế kỷ XX đã quyết tâm đấu tranh giải phóng đất nước góp phần biến thế kỷ này trở thành thế kỷ phi thực dân hóa với việc các nước thuộc địa đã giành được độc lập và trở thành đất nước tự do bằng cách loại bỏ chủ nghĩa thực dân. Chính vì vậy, Nghị quyết 24C/18.65 của UNESCO về kỷ niệm 100 năm ngày sinh của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định, ông đã “để lại dấu ấn trong quá trình phát triển của nhân loại” và là một biểu tượng xuất sắc về sự tự khẳng định dân tộc, đã cống hiến trọn đời mình cho sự nghiệp giải phóng dân tộc của nhân dân Việt Nam, góp phần vào cuộc đấu tranh chung của các dân tộc vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội”.

Trích dẫn

  • “Không có gì quý hơn độc lập, tự do.”[94]
  • Đất có bốn phương Đông Tây Nam Bắc.
Trời có bốn mùa Xuân Hạ Thu Đông.
Người có bốn đức Cần Kiệm Liêm Chính.
Thiếu một phương thì không thành đất.
Thiếu một mùa thì không thành trời.
Thiếu một đức thì không thành người.“[95]
  • Không có việc gì khó
Chỉ sợ lòng không bền
Đào núi và lấp bể
Quyết chí ắt làm nên.“[96]
  • Hoàn cảnh thế nào không quan trọng, quan trọng là đối phó thế nào.” [97]
  • Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu.“[98]

Xem thêm

Nguồn tìm hiểu thêm

Liên kết ngoài